Đại học thất nghiệp nhiều hơn trung cấp
Trình bày báo cáo này ở bậc giáo dục đại học , GS Lê Anh Vinh, viện trưởng Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, đưa ra số liệu cơ sở giáo dục đại học (gồm cơ sở đào tạo trình độ cao đẳng - trừ cao đẳng nghề, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ) tăng mạnh sau năm 2005.
Nhưng từ sau năm 2010 chỉ còn tăng nhẹ và giảm ở giai đoạn từ năm 2014 - 2019. Cụ thể, so với năm 2010, chỉ số phát triển quy mô đào tạo đại học là 105,3%. Tỉ lệ này ở năm 2015 là 53,7% và ở năm 2019 là 52,7%.
Buổi công bố báo cáo phân tích ngành giáo dục Việt Nam 2011-2020 - Ảnh: VĨNH HÀ
Ông Lê Anh Vinh giải thích lý do số liệu năm 2015 sụt mạnh so với năm 2014 là do các cơ sở đào tạo trình độ cao đẳng về hệ thống giáo dục nghề nghiệp (do Bộ Lao động - thương binh và xã hội quản lý).
Tương tự, so với năm 2010, quy mô sinh viên cũng tăng trưởng mạnh hơn vào năm 2014 (bằng 109,3%). Chỉ số này giảm nhẹ vào năm 2018 (70,2%) và lại tiếp tục nhích lên vào năm 2019 (79%).
Một chỉ số khác cho thấy năm 2018 có 108.527 du học sinh Việt Nam ở nước ngoài, bằng 3,6% tổng số sinh viên Việt Nam. Bình luận của nhóm nghiên cứu cho rằng chỉ số này cho thấy Việt Nam đã bắt kịp xu thế và đạt mức trung bình trong số các nước có tỉ lệ nhập học thô tương đương.
Báo cáo cho biết tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học tăng mạnh ở những năm 2015-2016 và giảm nhẹ ở năm 2019.
Đáng chú ý là ở một số ngành nghề, trình độ của sinh viên tốt nghiệp của những cơ sở như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP.HCM, Trường đại học Bách khoa Hà Nội… đã tiếp cận trình độ sinh viên tốt nghiệp của các trường đại học trong khu vực.
Báo cáo cung cấp số liệu năm 2018, tỉ lệ sinh viên của 181 cơ sở đại học và 40 trường cao đẳng có việc làm sau khi tốt nghiệp là 65,5%. Nhưng tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng cao hơn ở trình độ trung cấp.
Nhiều chỉ số phản ánh chất lượng còn thấp
Các chỉ số về nghiên cứu khoa học, xếp hạng trường đại học tại báo cáo trên cho thấy Việt Nam bị bỏ xa so với nhiều nước trong khu vực. Theo bảng xếp hạng Times Higher Education gần đây, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường đại học Bách khoa Hà Nội lọt vào top 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Nhưng theo bảng tổng hợp vị trí các cơ sở đại học trong một số bảng xếp hạng top 1.000, Việt Nam vẫn ở vị trí cuối cùng. Cụ thể, Việt Nam chỉ có 2 trường trong top 1.000 trường đại học bảng xếp hạng QS (Quacquarelli Symonds) và 2 trường lọt vào top 1.000 trường đại học bảng xếp hạng THE (xếp hạng Times Higher Education).
Trong khi đó, con số này của Trung Quốc lần lượt là 40 và 63; của Vương quốc Anh là 76 và 92; Đức là 45 và 47: Nhật Bản là 44 và 51; Hàn Quốc là 30 và 24; Malaysia là 13 và 9…
Nhận định của nhóm nghiên cứu cho rằng hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học Việt Nam có sự cải thiện đáng kể trong một thập kỷ qua.
Năm 2017, Việt Nam có 63 tài liệu được trích dẫn/1 triệu dân, chuyển từ thứ hạng 64 lên 45 (trong khoảng thời gian từ 2008 - 2018) về đổi mới toàn cầu. Nhưng Việt Nam vẫn đứng cuối cùng trong danh sách của hầu hết các chỉ số.
Mặc dù có những nỗ lực nhưng chất lượng giáo dục đại học vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực, yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, dù quy mô trường đại học và sinh viên tăng nhưng tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học còn thấp.
Nguồn tài chính chủ yếu từ học phí
Nhóm nghiên cứu cho rằng nguồn tài chính công dành cho giáo dục đại học của Việt Nam chưa tương xứng với mục tiêu phát triển quốc gia trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2035.
Theo bảng số liệu trong báo cáo, tổng GDP quốc gia là 5.006 ngàn tỉ đồng. Trong đó chi cho giáo dục - không bao gồm học phí - là 247.000 tỉ đồng (riêng chi cho giáo dục đại học là 17.000 tỉ đồng).
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học của Việt Nam thấp hơn nhiều nước trong khu vực và thế giới. Cụ thể, mức chi ngân sách nhà nước cho mỗi sinh viên đại học là 316 đôla Mỹ (số liệu năm 2015). Con số này thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Thực tế, học phí là nguồn thu chủ yếu của các cơ sở đào tạo.
Một số liệu tại báo cáo cho biết từ năm 2008-2018 (10 năm), đóng góp từ các hộ gia đình cho giáo dục đại học tăng gấp đôi.
Một hạn chế lớn được báo cáo đề cập là hệ thống quản trị và quản lý giáo dục đại học bị phân mảnh. Cụ thể, Bộ Giáo dục và đào tạo chịu trách nhiệm về giáo dục đại học, Bộ Lao động - thương binh và xã hội chịu trách nhiệm về giáo dục kỹ thuật, dạy nghề. Nhưng vẫn có khoảng 200 trường đại học, cao đẳng chuyên ngành do các bộ, ngành, địa phương khác quản lý trực tiếp.
Báo cáo cũng cho rằng trường đại học và viện nghiên cứu vẫn hoạt động độc lập, việc giảng dạy tách khỏi nghiên cứu công lập. Nguồn nhân lực và tài chính bị phân tán nên không thể hình thành sự xuất sắc trong nghiên cứu và giảng dạy.
Nhóm nghiên cứu kiến nghị cần phát triển giáo dục đại học theo hướng tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, có tư duy đổi mới sáng tạo và đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội và nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Báo cáo phân tích giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đưa ra nhiều số liệu và phân tích số liệu ở các bậc học từ mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục đại học với các khảo sát toàn diện và có tính điển hình theo vùng miền, khu vực, đối tượng…
Theo nhận xét của một vài chuyên gia, nhà giáo dục bên lề sự kiện trên thì số liệu công bố hơi cũ so với thời điểm hiện tại (năm 2022) và còn một số nội dung khác cần được đánh giá nhưng chưa thấy xuất hiện trong báo cáo này.
Tuy nhiên, một số chuyên gia chia sẻ tại buổi công bố thì ghi nhận sự cố gắng của nhóm nghiên cứu và đề cao tính chất cần thiết của những đánh giá toàn diện về bức tranh giáo dục Việt Nam để có cơ sở đề ra các chiến lược cho giai đoạn tiếp theo.