GS Nguyễn Văn Tuấn – Giảng viên cao cấp tại Đại học New South Wales (Úc). GS Tuấn tốt nghiệp thạc sĩ ở Đại học Macquarie (Úc) và là tiến sĩ thống kê, chuyên về dịch tễ học ở Đại học Sydney (Úc), tiến sĩ y khoa ở Đại học New South Wales (Úc), nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại Đại học Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh).
Năm 1997, ông tốt nghiệp tiến sĩ Y khoa nội tiết học và được bổ nhiệm làm Phó giáo sư Dịch tễ học trường Y thuộc Đại học Wright States (Mỹ). Năm 1998 ông được bổ nhiệm Phó giáo sư y khoa tại trường này. Năm 2009, ông Tuấn tiếp tục được bổ nhiệm giáo sư Đại học New South Wales (Úc) và hiện là giảng viên cao cấp tại trường này.
Trong buổi giao lưu trực tuyến với bạn đọc Báo Trí Thức Trẻ về "Hiến kế ngăn chặn suy giảm y đức", GS Nguyễn Văn Tuấn đã trả lời nhiều câu hỏi của độc giả với những kiến giải sâu sắc và tâm huyết. GS tâm sự, không muốn so sánh giữa nước này với nước khác nhưng GS Tuấn không "né" bất cứ câu hỏi nào của độc giả. Chúng tôi tiếp tục giới thiệu phần trả lời thứ 2 của GS Tuấn.
Sau đây là nội dung câu hỏi - trả lời ở buổi giao lưu:
- Thưa Giáo sư, ở Úc, khi đi khám chữa bệnh, người gốc Việt được đối xử như thế nào? Có sự kỳ thị nào không? Có chuyện phân biệt bệnh nhân giàu - bệnh nhân nghèo không? Chất lượng phục vụ ở bệnh viện công và bệnh viện tư có khác gì nhau không?
- Ở Úc, không bao giờ có sự phân biệt sắc tộc, hay giới tính, thành phần kinh tế, hay bất cứ khía cạnh nào trong các dịch vụ y tế. Rất khó so sánh chất lượng phục vụ giữa bệnh viện công và bệnh viện tư ở Úc vì theo tôi thấy rất tương đương nhau. Trước đây, tôi có tham gia một công trình nghiên cứu về sai sót trong y khoa, và kết quả cho thấy tỉ lệ sai sót trong bệnh viện công có phần thấp hơn (không đáng kể) so với bệnh viện tư.
- Giáo sư đã làm việc ở các cơ sở khám, chữa bệnh tại Việt Nam bao giờ chưa? Xét về thái độ làm việc, cung cách đối xử với bệnh nhân, ông nghĩ y bác sĩ Việt Nam đạt mấy điểm (ví dụ là trên thang điểm 10)?
- Tôi không làm việc ở Việt Nam, nhưng hay theo bạn bè và bà con vào bệnh viện, và âm thầm theo dõi. Vì thế tôi cũng có vài kinh nghiệm thú vị. Tôi thấy khá nhiều (không phải tất cả, nhưng “khá nhiều”) bác sĩ Việt Nam có thái độ hống hách, phách lối, và hành xử như là người ban ân huệ. Họ xem bệnh nhân như là những người dốt nát, không đáng để họ tốn thì giờ giải thích. Dĩ nhiên, có khi họ quá bận, nhưng tôi đang nói về trường hợp trong bệnh viện và họ có thì giờ để giải thích cho bệnh nhân. Hình như họ không quan tâm đến chữ “service” hay chăm sóc bệnh. Nhưng bên cạnh những người như thế, ngành y vẫn còn những người đàng hoàng và họ làm việc với tinh thần phục vụ, nhưng tôi e rằng con số đó không nhiều. Do đó, nếu phải chủ quan đánh dấu một điểm về dịch vụ và thái độ giao tiếp với bệnh nhân một cách toàn cảnh tôi sẽ cho điểm 3/10.
- Theo ông thì bao nhiêu năm nữa, Việt Nam mới vươn tới được như nền y tế Úc, chỉ tính riêng về mặt y đức. Hay là không bao giờ?
- Tôi không thích so sánh về các lĩnh vực mang tính định tính như đạo đức, vì bất cứ so sánh nào như thế cũng đềukhập khiễng. Vả lại, những chuẩn mực về đạo đức mang tính phổ quát, không phải chỉ có áp dụng cho Việt Nam mà không áp dụng cho nước khác.
Không ai có thể tiên lượng hay tính toán bao lâu nữa nền y tế Việt Nam sẽ bằng nền y tế Úc hay một nước tiên tiến nào đó. Y đức là những qui ước về đạo đức hành nghề, chứ không phải là những chỉ tiêu định lượng có thể cân đo đong đếm nên rất khó so sánh bằng con số. Y đức là một phần của hệ thống đạo lí (morality) xã hội. Ở Việt Nam, đã có nhiều tiếng nói về sự suy thoái đạo lí từ những ba mươi năm qua. Chúng ta biết rằng suy thoái về kinh tế thì có thể hồi phục theo thời gian, nhưng hệ quả của suy thoái về đạo đức thì rất khó phục hồi do tính “di truyền” của nó.
- Giáo sư có thể cho biết, các nước phát triển (trong đó có Úc - nơi ông đang công tác) có quy định nào cụ thể về y đức không? Nếu có thì nó được xây dựng trên cơ sở nào?
- Có chứ. Bất cứ nước nào cũng có qui định về y đức. Các chuẩn mực về y đức được xây dựng trên cơ sở số 1 là không làm hại người bệnh, và dựa trên 4 nguyên tắc chính. Bốn nguyên tắc đó là: tôn trọng quyền tự chủ của cá nhân; đem lợi ích đến cho người bệnh, giúp người bệnh kiểm soát sức khỏe của họ; công lý, tức bệnh nhân phải được bình đẳng trong chăm sóc, không được phân biệt đối xử; và tôn trọng quyết định cá nhân. Sau này, các nguyên tắc về y đức còn được mở rộng cho các hoạt động nghiên cứu y khoa trên người và trên động vật khác (ví dụ như trên chuột). Can thiệp trên chuột cũng phải tuân thủ theo các chuẩn mực đạo đức. Tôi có tìm hiểu những chương trình giảng dạy về y đức ở trong nước, và thấy phần lớn nội dung cũng phù hợp với các chương trình ở nước ngoài, nhưng đây đó vẫn có vài điểm chưa hẳn thuộc về y đức mà có vẻ tuyên truyền chính trị.
- Xin ông chia sẻ một vài câu chuyện gây bức xúc trong dư luận Úc về vấn đề y đức. Những trường hợp đó bị xử lí như thế nào?
- Rất ít trường hợp vi phạm y đức được đưa lên mặt báo, nhưng khi có thì hình phạt rất nặng. Mấy năm trước, một bác sĩ gốc Việt bị tố cáo sàm sỡ với nữ bệnh nhân, khi ra tòa, anh ấy bị rút bằng hành nghề. Một bác sĩ cấp cao người Úc vì ham tiền nên ghi danh nhiều bệnh nhân vào một công trình nghiên cứu và vi phạm y đức, nên ông bị ra toà, và hình phạt bao gồm trả lại tiền và bị rút bằng hành nghề suốt đời. Có một trường hợp bác sĩ gây tử vong cho hàng loạt bệnh nhân thì hình phạt có thể là tù giam.
- Sự khác biệt giữa ngành y tế các nước là tất yếu nhưng rõ ràng sự khác biệt không chỉ nằm ở điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật. Yếu tố con người ảnh hưởng như thế nào đến sự khác biệt này, thưa ông?
- Như nói trên, tôi nhìn yếu tố con người như là trái tim của một hệ thống. Đặc biệt ngành y, yếu tố con người rất quan trọng, vì đó là một ngành nghề mang tính nhân văn chứ không thuần túy khoa học. Bệnh viện có thể có trang thiết bị tốt nhưng không có chuyên viên biết sử dụng thì cũng chỉ là một đống sắt vụn. Có thể nói rằng nhiều bệnh viện lớn ở Việt Nam có trang thiết bị không kém gì so với bệnh viện nước ngoài, nhưng tại sao bệnh viện Việt Nam vẫn chưa tạo được cái uy tín và uy danh quốc tế. Tôi nghĩ câu trả lời nằm ở phẩm chất và chuyên môn của nhận sự ngành y.
- Một vị lãnh đạo ĐH Y có nói rằng: "Một sinh viên học đầy đủ y đức trong trường Y là có thể chắc chắn trở thành bác sỹ có y đức", ông có đánh giá như thế nào về vai trò của việc dạy y đức trong nhà trường? Có phải cứ dạy đủ y đức là sẽ có bác sĩ có y đức, bất luận môi trường xã hội ra sao?
- Tôi rất có cảm tình với nhận xét của vị lãnh đạo, nhưng tôi thấy khó chia sẻ nhận xét đó. Chúng ta nên nhớ rằng có tình trạng “trả chữ cho thầy”. Y đức là một bộ phận của hệ thống đạo lí xã hội. Người bác sĩ tương tác với xã hội và chịu sự chi phối của môi trường đạo lí xã hội. Do đó, cho dù người bác sĩ đã học về y đức trong nhà trường, nhưng khi tiếp xúc với môi trường ngoài xã hội có thể bị lệch. Vấn đề còn là giảng dạy y đức theo chương trình nào nữa. Vấn đề cần đặt ra vì những điều lệ về y đức của Việt Nam hiện nay rất khác với điều lệ y đức trên thế giới.
GS Nguyễn Văn Tuấn.
- Thưa Giáo sư, ông có thể khái quát về quá trình đào tạo bác sĩ ở Úc hiện nay? Nó khác như thế nào so với Việt Nam? Đã từng thỉnh giảng ở một số đại học Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về khả năng của sinh viên và khả năng đào tạo y khoa ở Việt Nam? Theo ông điều gì sinh viên ngành y Việt Nam đang thiếu so với sinh viên ngành y ở Úc?
- Ở Úc có 2 mô hình đào tạo bác sĩ. Mô hình thứ nhất có thể tạm gọi là “mô hình cử nhân”; theo đó, các học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông xuất sắc được tuyển chọn qua kì thi và phỏng vấn cá nhân. Sinh viên được tuyển thường theo học 5-6 năm (tuỳ trường) và tốt nghiệp với bằng cử nhân y khoa và cử nhân giải phẫu (MBBS). Mô hình thứ hai là mô hình sau đại học, các thí sinh đã tốt nghiệp cử nhân với hạng xuất sắc muốn theo học y khoa sẽ được tuyển chọn qua một kì thi và phỏng vấn cá nhân. Với mô hình thứ hai, sinh viên theo học y khoa 4 năm, và cũng tốt nghiệp với văn bằng MD (doctor of medicine).
Chương trình huấn luyện cấp cử nhân (MBBS hay MD) thường được cơ cấu thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 là chương trình học cơ bản (7-8 course), như quá trình phát triển của một cá nhân, lão hoá, môi trường, xã hội, và y đức. Giai đoạn 2 là học tiền lâm sàng. Giai đoạn 3 là tập trung học về lâm sàng, nhưng vẫn học khá nhiều môn về khoa học cơ bản và khoa học xã hội. Nhìn qua chương trình đào tạo ngành y ở Việt Nam (tôi chỉ nói các trường lớn và tương đối lâu đời) tôi thấy không khác so với các trường bên Úc. Nhưng trong thực tế thì có sự khác biệt lớn về nội dung và cơ sở vật chất giữa Úc và Việt Nam. Ở Úc và nhiều nơi trên thế giới (ngay cả Thái Lan), sinh viên y khoa học khá nhiều về khoa học cơ bản và sinh học với thực hành trong labo, nhưng ở Việt Nam thì vẫn còn thiếu thầy cô có kinh nghiệm và labo cho sinh viên. Vì thế không ngạc nhiên khi rất nhiều bác sĩ Việt Nam chưa cập nhật nổi những kiến thức cơ bản về sinh học, di truyền học, và sinh hoá vốn rất quan trọng cho ngành y.
Rất khó đánh giá chất lượng đầu ra của các trường y bên Việt Nam vì tôi không có dữ liệu. Nhưng có thể so sánh với một sốnước chung quanh về tỉ lệ thi tuyển y khoa. Ở Úc, các bác sĩ tốt nghiệp ở ngoài nước Úc có thể hành nghề y nếu họ qua một kì kiểm định về kiến thức và kĩ năng lâm sàng do Hội đồng Y khoa Úc điều hành. Kết quả kiểm định của các bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam không được khả quan. Chẳng hạn như năm 2009, có 19 bác sĩ thi về kiến thức y khoa, và chỉ có 7 người (~37%) được đỗ. Tỉ lệ này tương đối thấp khi so với bác sĩ Miến Điện (100% đỗ), Ấn Độ (52%), Nam Phi (68%), và Trung Quốc (43%). Tỉ lệ bác sĩ tốt nghiệp từ Việt Nam về lâm sàng cũng chỉ dao động trong khoảng 30-50%, và thấp hơn các bác sĩ từ các nước như Philippines, Ấn Độ và Miến Điện.
- Trong một bài viết của có tựa đề "Y đức và đạo lý", ông cho rằng GPTM không thuộc ngành y, vậy theo ông, trách nhiệm vụ bác sĩ thẩm mĩ phi tang thi thể nạn nhân thuộc về đâu? Ông đã bao giờ nghe đến trường hợp bác sĩ làm chết rồi phi tang xác như trường hợp của bác sĩ Tường trên thế giới chưa ạ?
- Tôi viết rằng xét trên khía cạnh mục tiêu và đối tượng thì GPTM không thuộc ngành y. Tôi chỉ nói giải phẫu thẩm mĩ (cosmetic surgery) chứ không đề cập đến giải phẫu chỉnh hình (constructive surgery). Dĩ nhiên, quan điểm đó của tôi không được nhiều người tán thành, và người ta có thể phản đối bằng cách chỉ ra rằng bác sĩ làm phẫu thuật thẩm mĩ là … bác sĩ. Cố nhiên, tôi cũng có thể chỉ ra rằng một người xuất thân là bác sĩ cũng có thể kinh doanh. Bác sĩ thực hiện phẫu thuật làm đẹp ứng dụng kĩ năng y khoa, kiến thức khoa học để đem lại cái đẹp cho khách hàng rất khác với bác sĩ điều trị bệnh nhân trong cơn thập tử nhất sinh.
Tôi chưa bao giờ nghe hay biết bác sĩ thẩm mĩ nào phi tang thi thể nạn nhân như vị bác sĩ ở Hà Nội. Có lẽ đó là một trường hợp đầu tiên trên thế giới. Nhưng tôi nghĩ không nên nhân một trường hợp cá biệt mà suy luận về tình trạng y đức cho toàn ngành y.