Hà Nội xưa từng xôn xao về vụ “cô Phượng Hàng Ngang”. Không chỉ báo chí, người ta còn viết sách, dựng kịch, làm thơ về vụ thảm tình này. Kẻ chê cô Phượng là dâm loạn, nhẫn tâm bỏ lại chồng con, bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý để đi theo trai. Người thì khen cô dám đạp lên lề thói đạo đức phong kiến, đi theo tiếng gọi thổn thức của con tim. Vậy cô Phượng Hàng Ngang là ai?
Vương Thị Phượng là thiếu nữ Hàng Đào, được liệt vào nhóm Hà Thành tứ mỹ. Người Hoa kiều ở Hàng Ngang nói rằng, cặp lông mày của cô “yên my“ (lông mày như mây khói), cặp mắt là “bán thụy phượng hoàng“ (con phượng hoàng nửa thức nửa ngủ, nghĩa là mắt mơ màng say đắm. Đối tượng nhìn vào đôi mắt ấy tự thấy mình như một chiếc lá vàng rơi…
Cô Phượng ăn mặc rất nền, khi thì chít khăn nhiễu tam giang, khi thì chít khăn nhung đen, đuôi gà vắt qua mái tóc. Cô hay mặc yếm hoa hiên, quần lĩnh tía cạp điều thắt lưng quan lục. Tất cả những màu sắc ấy ánh lên qua chiếc áo dài vải phin trắng may sát vào thân hình nở nang”. Và đã có không ít văn nhân - ký giả đương thời khi được diện kiến cô Phượng đã phải thốt lên: “Tây Thi khiếp vía, Hằng Nga giật mình”.
Nhiều thanh niên, nhà ngay sát chỗ làm, nhưng hàng ngày vẫn bốn lần đi về theo đường vòng để qua phố Hàng Ngang, để được ngắm cô Phượng từ xa. Nếu hôm nào không một lần được thấy cô, họ thấy bồn chồn, bứt rứt, đứng ngồi không yên.
Khi tàu điện chạy qua phố Hàng Ngang, không ai bảo ai, tất cả hành khách đều hướng mắt về phía dãy nhà mang số chẵn, nơi có một mỹ nhân góp phần làm cho vẻ đẹp Hà Nội thêm rực rỡ.
Vương Thị Phượng là con gái yêu của thương gia Hoa kiều Vương Toàn Thắng, nhà bán hàng tơ lụa giàu có. Lúc con nhỏ, Phượng đã nõn nà, mầu da như trứng gà bóc, ngón tay như ngọn bút măng, ai thấy cũng yêu, cũng ve vuốt. Con gái “lá ngọc cành vàng” được vợ chồng họ Vương nâng niu quý hóa như hạt ngọc trên tay.
Cô Phượng Hàng Ngang (Vương Thị Phượng).
Tuổi vừa đôi tám, tóc dài chấm đất, mắt biếc nghiêng thành, nhác trông ai cũng tưởng nàng tiên. Vẻ đẹp của cô Phượng đã khiến cho bao công tử hào hoa đất Hà Thành si mê, say đắm.
Thời đó, trạc tuổi với cô có A Đẩu sống ở Hàng Đào, cháu ruột của nhà tư sản chuyên buôn bán lụa Phan Vạn Thành. Thấy gia đình hai bên môn đăng hộ đối, nên thương gia Vương Toàn Thắng đã đồng ý gả con gái cho A Đẩu.
Khi về nhà chồng, cô được sống hết sức sung túc, không phải lo lắng gì về chuyện áo cơm. Ngày ngày cô ra cửa hàng ngồi bán hàng cùng mẹ chồng, việc quán xuyến nhà cửa cô cũng không phải động tay vào, vì đã có người hầu kẻ hạ làm hết.
Khi sinh con trai đầu lòng, cô càng được bố mẹ chồng cưng chiều. Tuy nhan sắc vẫn xinh tươi, nhưng sự rạng rỡ trong đôi mắt cô đã mất dần mất mòn sau những năm sống bên cạnh người chồng công tử của mình.
Đáng tiếc, chồng cô lại là hạng công tử bột “tốt mã giẻ cùi” vô công rồi nghề. A Đẩu có thói ăn chơi, cờ bạc rượu chè, chỉ coi vợ như một thứ đồ đắt tiền, xinh xinh, chỉ để ngắm nghía, canh chừng, chứ không phải để tâm tình. Chẳng những thế hắn lại hay ghen tuông và thường đánh đập vợ.
Giữa lúc đau khổ vì cuộc hôn nhân không hạnh phúc, cô đã gặp gỡ nhà báo Hoàng Tích Chu, người đàn ông tài hoa đất Kinh Bắc. Cô Phượng đã rung động mạnh trước người thanh niên đẹp trai, nho nhã này.
Vào khoảng cuối năm 1927, cả Hà Nội chấn động trước tin cô Phượng mất tích. Mãi sau này, mọi người mới biết cô Phượng đã theo Hoàng Tích Chu vào Sài Gòn chỉ để lại một lá thư từ biệt đầy nước mắt cho gia đình.
Hoàng Tích Chu lúc bấy giờ có cơ hội sang Pháp để học nghề báo mà ông không thể đưa cô theo được. Ông đành bảo cô về Bắc Ninh tìm gia đình mình, với bức thư thống thiết do ông viết, xin cha nhận cô là con dâu trong nhà. Cả hai chia tay nhau trong nước mắt.
Vốn là người có quan niệm cổ về lễ giáo, ông Huyện cho là gia đình Phượng không môn đăng hộ đối với gia đình ông, nên sai người đưa Phượng về xin lỗi chồng để trở lại, nhưng bị từ chối.
A Đẩu không chấp nhận vợ. Bản thân cô cũng không muốn về sống chung với người chồng đó nữa. Lúc này vợ chồng thương gia Vương Toàn Thắng đều đã qua đời. Cô Phượng đành phải làm nghề buôn bán nuôi thân.
Một lần, cô Phượng bị lừa hết vốn liếng, gia sản khánh kiệt. Không còn cách nào khác, cô phải cậy nhờ sự giúp đỡ của một số người đàn ông si mê cô.
Trong số những người tình của cô Phượng, có một người tên là Lưu. Ông giàu có và si mê cô Phượng. Nhưng Lưu là người đã có vợ, vợ lại là người nổi tiếng có "máu hoạn thư", nên ông đã thuê cho cô Phượng một ngôi nhà bên Long Biên để làm nơi tình tự.
Nhưng ý định này của Lưu sớm đã bị vợ phát hiện. Người đàn bà ghê gớm này đã phong tỏa tài sản của chồng, khiến ông đã không còn cơ hội để gặp cô Phượng. Cô quá đau khổ khi nghĩ về chuyện tình trắc trở của mình, đã quyết định về Hưng Yên, tìm một ngôi chùa xin xuất gia.
Một hôm, có người đàn ông tên Bách làm Tham tán ở tòa Sứ đến vãn cảnh chùa gặp Phượng. Bách mê mẩn vẻ đẹp mặt hoa da phấn của Phượng bèn mượn người đến đánh tiếng với Phượng và xin với sư bà cho Phượng về làm vợ lẽ.
Vợ cả của Bách đến đón Phượng về làm chị làm em rất quý hóa ngọt ngào. Ít lâu sau, Tham tán Bách được chuyển đi Lai Châu; vợ cả lại cho Bách và Phượng đi trước, còn mình sẽ lên sau. Ai ngờ bà cả đã ngầm sai người đầu độc Phượng bằng một loại thuốc gì đó làm cho cô hóa điên lúc tỉnh lúc mê, lúc cười lúc khóc, gầy rộc đi.
Tham tán Bách đành sai người đưa cô về Chợ Bờ (Hòa Bình), nhưng sau đó Phượng về lại Gia Lâm tìm đến bà hàng xóm cũ, trong người chỉ còn có 15 đồng bạc. Bà hàng xóm tốt bụng nhưng nhà quá nghèo trông nom cô như con đẻ. Bệnh ngày một nặng, bà đành phải đưa cô vào nhà thương làm phúc. Một tuần sau, cô Phượng qua đời.
Đám tang Phượng chỉ có một người tình cũ rủ lòng thương, khắc cho cô một tấm bia đề: "Mộ người bạc mệnh Vương Thị Phượng".