Tháng 3/2016, Lumitel (thương hiệu của Viettel tại Burundi) đạt 1,6 triệu khách hàng vươn lên vị trí số 1 chỉ sau 10 tháng hoạt động.
Tại Tanzania, Viettel đạt 1 triệu người dùng chỉ sau 3 tháng - tốc độ nhanh nhất trong lịch sử ngành viễn thông.
Theo báo cáo của Viettel Global, năm 2015, Viettel khai trương liên tiếp 3 thị trường lớn tại châu Phi gồm Cameroon, Burundi và Tanzania.
Ba thị trường này chiếm 3/4 thị trường châu Phi hiện có của Viettel, với hơn 80 triệu dân, gấp 3 lần so với thị trường châu Phi trước đây của Viettel là Mozambique.
Việc mở rộng thị trường này đã nâng quy mô đầu tư quốc tế của Viettel lên 10 nước với 270 triệu dân, gấp 3 lần dân số Việt Nam.
Trong số đó, Tanzania là quốc gia có đông dân số nhất các thị trường mà Viettel đầu tư, với 50 triệu người.
Đây cũng là quốc gia mà Viettel có tốc độ phát triển nhanh nhất trong lịch sử đầu tư nước ngoài cũng như ngành viễn thông thế giới, với việc đạt hơn 1 triệu khách hàng chỉ sau 3 tháng khai trương.
Vào tháng 3/2016, Lumitel (thương hiệu của Viettel tại Burundi) chính thức trở thành hãng viễn thông số 1 tại quốc gia đông Phi với 1,6 triệu khách hàng.
Đây cũng là dự án mà Viettel đạt được sự tăng trưởng nhanh - 1 triệu khách hàng chỉ sau hơn 5 tháng.
Với Cameroon, công ty đến từ Việt Nam đạt 2 triệu khách hàng sau 9 tháng cung cấp dịch vụ.
Trước đó, Mozambique cũng là thị trường thành công lớn của Viettel.
Dự án Movitel của công ty Việt Nam đứng số 1 cả về hạ tầng, thuê bao, thị phần, doanh thu… và đoạt tới 5 giải thưởng châu lục và thế giới trong lĩnh vực viễn thông.
Tuy nhiên, việc khai trương 3 thị trường mới dồn dập trong năm 2015 và cuối 2014 đã khiến chi phí của Viettel tại khu vực châu Phi tăng từ 50 triệu USD năm 2014 lên 230 triệu USD, tương đương 5.000 tỷ đồng (gấp 4,5 lần).
Trong khi đó, do mới khai thác, các thị trường này vừa đi vào hoạt động nên chưa đem lại doanh thu lớn đủ đề bù chi phí. Thông thường một dự án viễn thông phải có 5-7 năm mới đem lại lợi nhuận.
Điều này cũng lý giải vì sao lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài năm 2015 trên toàn cầu của Viettel không đạt như kỳ vọng.
Lãi sau thuế từ mảng kinh doanh này ở mức 500 tỷ đồng, mặc dù lợi nhuận ở các châu lục (trừ châu Phi) đạt 1.235 tỷ đồng (châu Á) và 213 tỷ (châu Mỹ).
Đặc biệt thị trường châu Mỹ, sau 5 năm kinh doanh đã chuyển từ lỗ 87 tỷ đồng sang lãi 213 tỷ đồng năm 2015.
Ngoài ra, biến động tỷ giá tại các thị trường cũng gây ảnh hưởng chung tới các nhà mạng trên thế giới, làm phát sinh chi phí đột biến với Viettel.
Đặc biệt, chênh lệch tỷ giá chiếm tới 32% tổng chi phí Viettel tại châu Phi.
Tuy nhiên, đây chỉ là con số ghi nhận trong báo cáo, do quy đổi tỉ giá tại thời điểm hiện tại. Trên thực tế, các hoạt động kinh doanh của Viettel tại châu Phi chủ yếu đều tính bằng đồng nội tệ và tăng trưởng tốt.
Cũng theo báo cáo của Viettel Global, tốc độ tăng trưởng doanh thu đầu tư quốc tế năm 2015 của Viettel là 9%, đạt gần 1,5 tỷ USD.
Trong khi đó, theo số liệu của OVUM (hãng nghiên cứu và phân tích thị trường hàng đầu thế giới, trụ sở chính tại Anh), tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành này trên thế giới là 2,3% (chỉ bằng 1/4 so với Viettel).
Theo đánh giá của các chuyên gia viễn thông, chiến lược tập trung nhanh chóng nâng quy mô thị trường của Viettel là hợp lý trong thời điểm này, khi tập đoàn Việt Nam bắt đầu có những bước tiến mạnh ra thị trường quốc tế.
Với viễn thông hay các ngành hàng bán lẻ nói chung, lợi thế quy mô thị trường là điều kiện quyết định thành công.
Trước đây, tại Việt Nam, Viettel đã thành công với chiến lược đầu tư mạnh, mở rộng vùng phủ ngay từ giai đoạn đầu để nhanh chóng trở thành nhà mạng dẫn đầu.