Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1989, vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam đạt khoảng 4,07 triệu USD, xếp thứ 9/10 trong khối ASEAN và thứ 123/160 trên thế giới. Đến năm 2022, Việt Nam thu hút được khoảng 19 tỷ USD, xếp thứ 3/10 trong khối ASEAN và thứ 28 trên thế giới.
Thu hút vốn đầu tư FDI của Việt Nam giai đoạn 1989 – 2022. Nguồn: WB.
Như vậy, Việt Nam nhảy từ vị trí thứ 123 lên thứ 28, nhảy 95 bậc trong bảng xếp hạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới giai đoạn 1989 - 2022 . Cùng với đó, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã tăng 4.634 lần trong giai đoạn 1989 - 2022.
Xét riêng các nước trong khối ASEAN, năm 1989, Việt Nam xếp thứ 9/10 các quốc gia trong khối ASEAN về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, Singapore là quốc gia thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất, đạt khoảng 1,89 tỷ USD.
Sang năm 1992, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã vượt qua nhiều quốc gia trong khu vực và xếp thứ 5/10 các quốc gia trong khối ASEAN. Lúc này, Việt Nam thu hút được khoảng 174 triệu USD. Sau đó, đến năm 1994, Việt Nam nhảy thêm một bậc nữa trong bảng xếp hạng, xếp thứ 4/10 trong khối ASEAN. Cụ thể, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam (1,94 tỷ USD) vào năm 1994.
Đến năm 2001, dòng vốn FDI vào Việt Nam lần đầu tiên xếp thứ 3/6 trong bảng xếp hạng với vốn FDI đạt 1,3 tỷ USD, xếp sau Singapore (17,01 tỷ USD) và Thái Lan (5,07 tỷ USD). Do đó, sau 13 năm, Việt Nam từ vị trí thứ 9/10 đã vượt lên vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng các quốc gia thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất trong khối ASEAN.
Thu hút vốn đầu tư FDI các nước trong khối ASEAN giai đoạn 1989 – 2022. Nguồn: WB.
Giai đoạn 2001-2022, thứ hạng các quốc gia trong bảng xếp hạng thu hút dóng vốn FDI có sự thay đổi liên tục. Trong đó, Singapore là nước liên tục dẫn đầu về thu hút dòng vốn FDI trong nhiều năm.
Cùng với đó, Việt Nam có 2 lần xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng các quốc gia thu hút dòng vốn FDI lớn nhất trong khối ASEAN với vốn FDI đạt 9,58 tỷ USD vào năm 2008 và 7,6 tỷ USD vào năm 2009.
Từ năm 2015-2022, Việt Nam liên tục giữ vững vị trí thứ 3/10 trong bảng xếp hạng quốc gia thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất trong khối ASEAN.
Việt Nam là nước có mức tăng lớn nhất về thu hút dòng vốn FDI trong giai đoạn 1989-2021. Các quốc gia khác đều có sự cải thiện nhưng chậm hơn như: Campuchia (gấp 716 lần), Lào (gấp 267,5 lần), Myanmar (gấp 257,5 lần), Singapore (gấp 74,52 lần), Indonesia (gấp 31,84 lần), Brunei (gấp 20 lần), Philippines (gấp 16,43 lần), Malaysia (gấp 9,05 lần) và Thái Lan (gấp 5,65 lần).
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), dự liệu FDI các nước trên thế giới do WB báo cáo thường khác với các báo cáo khác vì sự khác biệt về nguồn, cách phân loại nền kinh tế, phương pháp được sử dụng để điều chỉnh và phân tách thông tin được báo cáo. Do đó, dữ liệu về dòng vốn FDI vào các nước của WB sẽ khác so với dữ liệu Tổng cục Thống kê các nước công bố.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 29/12/1987, Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, văn bản pháp lý quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Vào năm 1988, tờ giấy phép cho dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đầu tiên chính thức được Bộ Kinh tế Đối ngoại cấp cho một liên doanh giữa Công ty Hochimex của Hồng Kông (Trung Quốc) và Công ty Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tính đến nay, hơn 143 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Đáng chú ý, đầu tư của một số đối tác lớn như Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều tăng lên hàng năm. Làn sóng FDI có khuynh hướng tập trung vào các ngành nghề hàm lượng chất xám cao như công nghiệp phần mềm, điện tử tin học, dược phẩm, cơ khi chính xác.
Trên thực tế, Việt Nam có một số điểm mạnh trong thu hút FDI điển hình như: tình hình an ninh, chính trị ổn định; vị trí địa lý thuận lợi lực lượng lao động dồi dào, thể chế, luật pháp và sự minh bạch của Việt Nam dần được hoàn thiện gắn với hội nhập.
Do đó, Việt Nam không những tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động lâu dài mà còn giúp các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu một cách thuận lợi.