Quốc tế hóa tranh chấp
Trong một thông cáo báo chí, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã kêu gọi “các nước liên quan và cộng đồng quốc tế” “cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung”.
Nội dung ngụ ý về việc Hà Nội dường như đã sẵn lòng quốc tế hóa va chạm tại Bãi Tư Chính để tạo ra một sức mạnh lan tỏa trong tranh chấp Biển Đông. Động thái này được cho là sẽ có hiệu quả dù nó đi ngược với việc Bắc Kinh từ lâu không muốn có các can thiệp từ bên ngoài đối với vấn đề Biển Đông.
Bất kỳ hành động nào làm tệ hơn tình hình ở Bãi Tư Chính có thể gây ảnh hưởng tới lợi ích và thu hút được sự can thiệp chủ động của các bên ngoài khu vực dưới danh nghĩa việc bảo vệ trật tự dựa trên luật lệ cũng như tự do hàng hải trong khu vực.
Động thái này của Việt Nam có thể sẽ không khiến Bắc Kinh phải đảo ngược lại tất cả các hành động của mình ở Bãi Tư Chính ngay lập tức, nhưng ít nhất nó có thể ngăn chặn Trung Quốc sử dụng các hành động hung hăng hơn và chỉ duy trì sự hiện diện các tàu của mình trên các trạm trong vùng nước ở đây như hiện nay.
Buộc Trung Quốc phải lùi bước
Điều gì sẽ có khả năng buộc Bắc Kinh phải lùi bước và rút khỏi Bãi Tư Chính? Ít nhất, ASEAN cần có một lập trường thống nhất và rõ ràng về vấn đề này. Trước Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần 52 (AMM-52) ở Bangkok, tờ Nikkei Asian Review từng dự đoán, dự thảo Tuyên bố của ASEAN sẽ đề cập rằng hành động của Trung Quốc trên Biển Đông làm “xói mòn lòng tin”. Ngôn ngữ như vậy là mạnh mẽ và rõ ràng nhắm thẳng tới Bắc Kinh.
Để đạt được tác động sâu sắc hơn, các nhà lãnh đạo của ASEAN cũng cần cảnh báo Bắc Kinh rằng bất cứ loại hành vi cưỡng ép nào tại Bãi Tư Chính, đi ngược lại với các thông lệ và quy tắc quốc tế sẽ làm phương hại tới những gì mà ASEAN và Trung Quốc đã đạt được trong vòng hai năm qua, trong đó có cả tiến trình COC.
Bãi Tư Chính có thể là một phép thử cho vai trò trung tâm và tính phù hợp trong thời gian tới của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đã đến lúc tổ chức này phải có sự thể hiện phù hợp sau khi đã thất bại trong việc làm những gì họ cần làm vào tháng 7 năm 2012.
Các cường quốc bên ngoài khu vực quan trọng và các thể chế quốc tế như EU, vốn đã thành công trong việc duy trì trật tự dựa trên luật lệ trong một thời gian dài, cũng nên thể hiện tiếng nói của mình.
Mỹ đã là cường quốc đầu tiên phản ứng với các hành động gần đây của Trung Quốc. Dự thảo của Thượng viện về Đạo luật Trừng phạt Trung Quốc liên quan tới các hành vi trên Biển Đông và Biển Hoa Đông năm 2019, đề xuất vào cuối tháng 5 năm nay có thể sẽ nhận được một cú huých nhất định sau va chạm này. Một khi được thông qua, các biện pháp trừng phạt có thể được nâng lên đối với Trung Quốc và buộc nước này phải thay đổi hành động của mình.
Cần một kịch bản cụ thể
Đã đến lúc cộng đồng quốc tế, không chỉ là các quốc gia ASEAN, nhận ra rằng việc cố gắng gắn Trung Quốc với các nỗ lực chung liên quan tới vấn đề Biển Đông đã không mang lại hiệu quả sau những nỗ lực liên tiếp thời gian qua.
Một mặt, Trung Quốc công khai theo đuổi chính sách ngoại giao, thể hiện qua việc nước này thúc đẩy COC. Nhưng mặt khác, nước này tiếp tục sử dụng các công cụ cưỡng chế để có thể đạt được mục tiêu của mình, làm phương hại tới quyền hợp pháp của các bên khác. Các lợi thế về địa lý là một quốc gia ven biển ở Biển Đông, và lực lượng mà Trung Quốc xây dựng trên và xung quanh Biển Đông đã tạo cho nước này khả năng “vô tiền khoáng hậu” trong việc thực thi các hành vi áp đặt và cưỡng chế.
Nếu không có một phản ứng cứng rắn từ phía cộng đồng quốc tế tới các hành động của Trung Quốc tại Bãi Tư Chính, các vụ việc tương tự sẽ còn lặp lại trong những năm tới đơn giản bởi Bắc Kinh có thể nhận ra rằng các hành động cưỡng ép của họ đã mang lại hiệu quả.
Từ đó, điều này sẽ trở thành một động lực không chỉ cho Trung Quốc mà còn là các nước khác trong và ngoài khu vực đang nhen nhóm ý định bình thường hóa các hành vi cưỡng ép trở thành bộ công cụ tiêu chuẩn trong cách hành xử quốc gia.
Như lịch sử đã chỉ ra, nhân nhượng sẽ chỉ gây ra nhiều hành động gây hấn hơn bởi những kẻ hung hăng cường quyền biết rằng sẽ không có giới hạn nào cho các hành động của họ. Và như vậy, Bãi Tư Chính không nên trở thành "một Sudetenland của Biển Đông".
(theo Maritime Issues/nghiencuubiendong.vn)