1. Chẳng phải những hình ảnh tư liệu độc đáo, hay những bài phỏng vấn độc đáo, mà chính chất nhạc của bộ phim dài gần 10 phút này mới là thứ cho người ta biết rằng những người làm phim hiểu chân sút huyền thoại đã xé toang kỷ lục ghi bàn tại các VCK World Cup của Gerd Muller, rồi Ronaldo đến thế nào.
Hành trình trên đất Đức của nòng pháo thượng thặng này, từ Kaiserslautern, qua Wender Bremen rồi Bayern Munich được lồng nền nhạc cực kỳ kịch tính, mang đậm hơi hướng một bộ phim hành động, ly kỳ, nhưng tuyệt đối dứt khoát.
Miroslav Klose - The Movie "The story of a legend"
Những ai đã từng xem bộ phim Cưỡng Đoạt (Taken) do diễn viên kỳ cựu Liam Neeson thủ vai chính hẳn sẽ nhanh chóng nhận ra tiết tấu quen thuộc ở đây. Trong phim, nhân vật nam chính "xử" những kẻ bắt cóc con gái mình nhanh gọn, tàn nhẫn và lạnh lùng thế nào, thì trên sân cỏ, Klose dứt điểm tung lưới đối thủ cũng lạnh lùng, nhanh gọn y hệt thế.
Bước chuyển từ Bundesliga sang Serie A, đến Lazio được mở đầu bằng một khúc tình ca êm đềm, nhẹ nhàng, trước khi chuyển qua những giai điệu sôi động hơn, với lời rap nhưng lại rất chậm rãi, điềm tĩnh. Đấy chính là tính cách thật của Klose - nhà vô địch luôn nói rất ít và cực kỳ khiêm tốn về mình. Đấy chính là con người anh.
Đoạn cuối cùng là VCK World Cup 2014 tại Brazil, trong tiếng nhạc nền trầm hùng là chỉ vỏn vẹn 3 bàn thắng, trong đấy có 1 bàn không phải của tiền đạo gốc Ba Lan này là một đoạn kết chưa hẳn trọn vẹn và còn nhiều tiếc nuối, cho một cây săn bàn thượng thặng, nhưng lại mở ra một chân trời mới...
2. Nước Đức không thiếu cầu thủ giỏi, chẳng thiếu những chân sút giỏi, nhưng cũng chẳng thiếu những chân sút chôn vùi sự nghiệp của mình ngay từ khi còn rất trẻ. Sebastian Deisler - thiên tài bóng đá, ngôi sao sáng nhất của bóng đá Đức những năm đầu thế kỷ 21 đã phải kết thúc sự nghiệp của mình trong bóng ma ám ảnh của căn bệnh trầm cảm.
Miroslav Klose không bị trầm cảm, nhưng có lẽ tiền đạo này đã chôn vùi sự nghiệp sáng chói của mình từ hơn 10 năm trước vì rượu. Một thời, rượu là thú vui hàng đầu của anh. Không phải là những cuộc vui thâu đêm suốt sáng như giới cầu thủ Anh, Klose uống rượu rất "chuyên nghiệp", chỉ uống rượu mạnh, và thường là một mình.
Mười hai năm trước, tháng 8/2004, sau trận đấu ra mắt Werder Bremen, cầu thủ gốc Ba Lan như thường lệ tìm đến một quán rượu nhỏ, ngồi "chén tạc chén thù" với một tay bợm rượu già một trận kinh hồn. Chẳng biết câu chuyện thù tạc vui đến đâu, như hẳn cả hai đều nốc rất nhiều, bởi trong đêm, Klose phải rời quán bằng... xe cấp cứu.
Tay bợm già vẫn ngồi uống tiếp, còn tân trợ lý HLV trưởng đội tuyển Đức thì rơi vào tình trạng hôn mê suốt 10 ngày. Sự kiện kinh hoàng rồi cũng qua, mở ra bước ngoặt mới của cuộc đời. Từ đó trở đi, rượu trở thành kẻ thù của anh. Đấy là trận say cuối cùng trong đời Miroslav Klose.
Bước qua được chứng nghiện rượu, Klose như bừng tỉnh từ đêm đen. Với tiền đạo này, ý nghĩa cuộc đời chỉ còn gói gọn trong bóng đá, gia đình và một cuộc sống chuẩn mực, chỉnh chu. Nói không ngoa, trận say này lấy đi một kẻ say sưa, và trả lại cho bóng đá thế giới một tiền đạo - kỷ lục gia.
3. Con số 16 bàn thắng ở 4 VCK World Cup mà Klose ghi được cho ĐTQG Đức là kỷ lục, nó chỉ kém số bàn thắng mà ĐTQG Anh ghi được trong 4 VCK World Cup ấy có đúng 1 bàn. Và điều đặc biệt, cả 16 bàn thắng ấy đều được ghi từ cự ly 11m đổ lại. Cái danh xưng "sát thủ trong vòng cấm" không trao vào tay anh, thì còn trao vào tay ai?
Tố chất thể thao của Klose ảnh hưởng rất nhiều vào yếu tố di truyền, với người cha là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và mẹ - tuyển thủ quốc gia bóng ném Ba Lan. Nhưng bản năng sát thủ trong không gian hẹp, giữa sự bao vây của số đông hậu vệ đối phương lại đến từ một trong những đam mê khác của anh, ngoài rượu: câu cá.
Được theo bố câu cá hồi từ khi còn rất bé, Klose là một tay câu "sát thủ" chẳng kém việc ghi bàn. Anh chỉ câu cá hồi, và chỉ câu những giống cá hồi khó câu nhất. Càng khó, Klose càng thích thú và quyết tâm bắt cho bằng được.
Ngày còn chơi cho Bayern Munich hồi những năm 2007 - 2011, những ngày nghỉ tiền đạo này dậy từ 5 giờ sáng, để ngâm mình dưới dòng nước chảy xiết của Isar - dòng sông chảy quanh thủ phủ Bavaria, câu cá hồi nâu và cá hồi vân.
Nhưng mỗi khi có dịp, Klose đều không bỏ lỡ cơ hội đi câu cá hồi Danube (huchen) - loại cá hồi lớn nhất, và cũng tinh quái nhất, có khả năng phân biệt được rất nhiều loại mồi câu.
Từ thú vui câu cá hồi, Klose học được kỹ năng săn bàn từ cả loài cá này, lẫn từ cách để câu được chúng. Kỹ năng của loài cá hồi giúp tiền đạo này chọn vị trí, tránh sự truy cản của đối phương, lẩn vào vòng cấm của đối phương. Còn kỷ năng dứt điểm trên sân bóng, có rất nhiều điểm tương đồng với việc dụ cá cắn câu và "dứt điểm" được giống cá đôi khi nặng đến 58kg này.
Trút xong trên vai gánh nặng của một tiền đạo, tay săn bàn kỷ lục ngày nào giã từ sự nghiệp thi đấu ở tuổi 38. Thế giới bóng đá mất đi một tiền đạo xuất sắc, nhưng băng ghế huấn luyện tuyển Đức có thêm một trợ lý xuất sắc, không chỉ giải quyết khâu ghi bàn cho những chân sút trẻ, mà còn là một minh chứng sống về cuộc đời, về bản lĩnh, về những thứ phải học ngoài sân cỏ.