Ngày 8/9, TAND tỉnh Tây Ninh đã tuyên bị cáo Đặng Thanh Tuấn (18 tuổi, ngụ huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh) không phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và trả tự do ngay tại tòa.
Trước đó, tại phiên sơ thẩm lần 1, tháng 4/2015, TAND tỉnh Tây Ninh đã tuyên phạt Tuấn 8 năm tù về tội danh này. Sau đó, bị cáo đã làm đơn kháng cáo kêu oan.
Ngày 6/12/2016, TAND Cấp cao tại TP.HCM mở phiên tòa, tuyên hủy bản án sơ thẩm, đề nghị điều tra xét xử lại.
Tại Bản án phúc thẩm cũng phát hiện ra lúc sinh nạn nhân N. thì người mẹ chưa tới 13 tuổi (người mẹ sinh năm 1989), từ đó bản án đề nghị điều tra cha của N. để xem xét xử lý hình sự người cha này.
Ngày 28/4, CQCS ĐT- Công an tỉnh Tây Ninh đã kết luận điều tra bổ sung, quy kết Tuấn có hành vi phạm tội “Hiếp dâm trẻ em”. Viện KSND tỉnh Tây Ninh đã chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án cùng cấp.
Theo điều tra, sau một thời gian quen biết và nảy sinh tình cảm, Tuấn nhiều lần chở N. đi chơi và có quan hệ với nhau 5 lần. Phát hiện sự việc, gia đình N. đã tố cáo với cơ quan chức năng.
Tại phiên sơ thẩm lần 2, đại diện VKS tại tòa bảo lưu quan điểm và đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo 8-10 năm tù.
Theo hồ sơ, Tuấn sinh ngày 25/05/1999, nên tính đến ngày phạm tội (26/6/2015) là đủ 16 tuổi. Bị hại là bé N. theo giấy khai sinh là ngày 2/10/2002, tính đến thời điểm bị hại thì bé N. được 12 tuổi 9 tháng 19 ngày.
Theo quy định, nếu bị hại chưa đủ 13 tuổi thì Tuấn sẽ phạm tội hiếp dâm trẻ em như cáo trạng quy kết.
Nếu bị hại đã đủ 13 tuổi thì bị cáo Tuấn không phạm tội hiếp dâm trẻ em và không phạm tội giao cấu với trẻ em bởi chủ thể của tội giao cấu với trẻ em phải là người đã thành niên, trong khi Tuấn cũng chỉ mới vừa qua tuổi 16.
Đáng nói là trong vụ án này, giấy tờ hộ tịch, lời khai của bị hại và những người liên quan không thống nhất về độ tuổi của bị hại. Chính vì thế, luật sư bào chữa cho bị cáo Tuấn đã đề nghị cơ quan điều tra cho giám định để xác định độ tuổi của bị hại nhưng không được thực hiện.
Căn cứ để xác định độ tuổi của bị hại là giấy khai sinh của bé N. Tuy nhiên, khai sinh này lại được làm trễ hạn đến 5 năm (tức năm 2007 em N. mới được cấp giấy khai sinh)
Trong khi đó, hồ sơ thể hiện N. cũng không không có giấy chứng sinh của cơ sở y tế cũng như giấy xác nhận của người làm chứng ở thời điểm bé N. được sinh ra.
Các bút lục, lời khai của ông ngoại và mẹ bé N. cùng những người biết việc bé N. được sinh ra cũng có mâu thuẫn trong xác định thời điểm sinh.
Tại phiên xét xử, HĐXX nhận định căn cứ vào tài liệu hồ sơ vụ án và theo hướng dẫn cách tính tuổi theo Thông tư liên tịch giữa các ngành thì xác định ngày giao cấu đầu tuần tiên nạn nhân đã 13 tuổi 3 tháng 3 ngày. Vì vậy Tuấn không phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” và lúc này Tuấn mới hơn 16 tuổi, hai bên quan hệ tự nguyện nên cũng không phạm tội “Giao cấu với trẻ em “theo Điều 115 BLHS (tội giao cấu với trẻ em chủ thể phải là người đã thành niên trong khi lúc quan hệ thì Tuấn chưa thành niên).
Về nội dung ‘truy tìm người cha’, cáo trạng cho rằng kết luận bổ sung của công an đã làm rõ: Người mẹ khai cha của nạn nhân là NTP (sinh năm 1979, ngụ huyện Hòa Thành Tây Ninh).
Ông P. xác định có quen biết tình cảm và quan hệ với mẹ N. Tuy nhiên ông P khai không nhớ thời gian cụ thể, năm quan hệ tình dục, năm mẹ nạn nhân mang thai.
Theo CQĐT, ông P. đã có hành vi quan hệ và sinh ra N. khi mẹ nạn nhân chưa đủ 13 tuổi, dù quan hệ là đồng thuận nhưng hành vi của ông P. đã có dấu hiệu phạm tội “Hiếp dâm trẻ em” theo Điều 112 Bộ luật hình sự, là loại tội phạm nghiêm trọng và còn hiệu lực truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên CQĐT đã quyết định không truy cứu P. vì “không còn gây nguy hiểm cho xã hội” và mẹ nạn nhân cũng đã có đơn xin không yêu cầu xử lý hình sự với P.
Sau khi xem xét, HĐXX tuyên án, theo bản án vừa tuyên, Tòa chấp nhận ý kiến của luật sư, bác quan điểm của VKS, qua đó tuyên bị cáo Tuấn không phạm tội, trả tự do cho bị cáo Tuấn tại tòa.