Theo tạp chí National Interest, tàu ngầm USS Halibut là một trong những tàu ngầm khác thường nhất những năm Chiến tranh Lạnh. Nó được đặt theo tên một loại cá kỳ lạ trên biển, cá bơn, loại cá chuyên săn mồi dưới đáy biển, có thân hình dẹp với 2 con mắt nằm về phía một bên. Loài cá này thường nằm sát dưới đáy biển để phục kích kẻ thù.
Tương tự như cá bơn, tàu ngầm Halibut (SSNG-587) là một vũ khí quân sự dành nhiều thời gian dưới đáy đại dương chuyên thực hiện những nhiệm vụ tối mật trong Chiến tranh Lạnh.
Tàu ngầm USS Halibut cũng là tàu ngầm mang tên lửa dẫn đường đầu tiên của hải quân Mỹ cũng như của thế giới. Con tàu được chế tạo để phóng tên lửa hành trình SSM-N-9 Regulus II. Tên lửa được phóng thông qua một giá phóng nghiêng. Tàu ngầm Halibut có thể mang theo 5 tên lửa Regulus II.
Tàu ngầm USS Halibut
Tàu ngầm Halibut được đưa vào hoạt động từ năm 1960. Đến năm 1965, tên lửa Regulus trở nên lỗi thời, hải quân Mỹ quyết định nâng cấp Halibus cho nhiệm vụ mới.
Khoang chứa tên lửa trước đây được sửa đổi để mang theo 2 tàu lặn điều khiển từ xa (ROV) có biệt danh "Fish". Tàu ngầm USS Halibut hoạt động dưới biển sâu trong thời gian dài. Nó đã thực hiện rất nhiều nhiệm vụ tuyệt mật của Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh.
Tàu ngầm Halibut có chiều dài hơn 105m, chiều rộng gần 9m, khoang chứa của tàu cùng với các thiết bị được lắp đặt đã khiến trọng lượng của nó lên tới 5.000 tấn. Lò phản ứng hạt nhân S3W cho phép tàu có tốc độ tối đa là 20 hải lý/giờ và tầm hoạt động gần như không giới hạn.
Điều này cho phép khả năng của tên lửa Regulus II, có tầm bắn vào khoảng 1.600km, được phát huy tối đa.
Ngoài ra, tàu ngầm USS Halibut còn có khoang để vận hành hai thiết bị điều khiển từ xa đặc biệt mang tên "Con cá". Thiết bị lặn này có chiều dài 3,6m và được lắp đặt hệ thống camera, đèn pha và thiết bị xôna để tìm kiếm những vật thể ở dưới độ sâu 7.600m. Để xử lý những dữ liệu mà "Con cá" thu được, một máy tính 24 bit, được coi là hiện đại nhất vào thời đó, được lắp đặt trên tàu.
Sau này, tàu ngầm Regulus II được thay thế bằng tên lửa đạn đạo Polaris, với động cơ tên lửa mới cho phép kích cỡ của nó giảm xuống, đồng thời tầm bắn được nâng cao. Sự xuất hiện của Polaris cùng các tàu ngầm lớp George Washington, và việc tên lửa Regulus II bị ngừng sản xuất 17 ngày trước khi tàu Halibut hạ thủy đã đe dọa sự tồn tại của nó.
Sau khi được cải tạo, tàu ngầm Halibut được coi là vũ khí tấn công thông thường và tham gia thực hiện các nhiệm vụ do thám tìm kiếm và thăm dò.
Tàu ngầm USS Halibut có chiều dài hơn 105m, chiều rộng gần 9m
Năm 1970, tàu Halibut được cải tạo một lần nữa để cho phép các thợ lặn sâu có thể hoạt động trên tàu.
Một năm sau, nó lại ra khơi và thực hiện nhiệm vụ lắp đặt máy nghe trộm vào đường dây cáp liên lạc nối giữa căn cứ tàu ngầm của Liên Xô (cũ) tại thành phố Petropavlovsk, thuộc bán đảo Kamchatka, với trụ sở chính của Hạm đội Thái Bình Dương tại thành phố Vladivostok cũng thuộc khu vực trên.
Tàu Halibut bị ngừng sử dụng vào ngày 01/11/1975, sau 1.232 lần ra khơi làm nhiệm vụ và 16 năm hoạt động trong quân đội. Thay thế cho nó, ngày nay tàu USS Jimmy Carter, một tàu được thiết kế để hoạt động bí mật, được cho là đang thực hiện việc thu thập thông tin tình báo.