Hoa cau: cau (Areca catechu), còn gọi là tân lang hay binh lang, là một loài cây trong họ Cau(Arecaceae).
Hoa cau: nụ hoa đực của cây cau, có vị hơi ngọt, tính mát, có tác dụng bổ tim, gan, dạ dày, trị ho, thanh nhiệt, thông khí, tán ứ trệ khí ở dạ dày… Trong hoa cau còn có vitamin A, vitamin C và có nhiều chất xơ.
- Trị ho, đau tức ngực, tê đau các khớp, chướng khí ở bụng: lấy 0,5 lạng hoa cau hầm với thịt lợn để ăn.
- Trị ho, làm tốt dạ dày, bổ tỳ: lấy 4 lạng hoa cau, 2,5 lạng sườn, muối đủ dùng. Hoa cau cắt đoạn nhỏ, bỏ cuống, ngâm rửa sạch với nước muối, vớt ra để ráo.
Hoa chuối: chuối là tên gọi các loài cây thuộc chi Musa. Họ Chuối (Musaceae) là một họ thực vật một lá mầm bao gồm các loài chuối và chuối lá.
Chữa sa tử cung: lấy hoa chuối tiêu (nhặt những hoa đã rụng xuống đất) sao tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh thứ bột đó, dùng nước sôi để chiêu thuốc. Cũng có thể dùng 60g củ chuối tươi sắc uống làm nhiều lần mỗi ngày.
Chữa đau tim, hồi hộp, mất ngủ: hoa chuối 30g, tim lợn 1 quả. Hoa chuối rửa sạch, thái nhỏ; tim lợn rửa sạch bổ tư; hai thứ cho vào nồi đun trong 30 phút, sau đó bỏ bã hoa chuối, ăn tim lợn và uống nước. Công dụng: bình can giáng nghịch, ích khí an thần, trấn tĩnh.
Lợi sữa: hoa chuối hầm chân giò: móng giò:1 cái (500g); hoa chuối: 1 cái; hành khô, tỏi, me; hành, ngò rí, hạt nêm, hạt tiêu, dầu hào, bột canh, mắm, muối, mẻ.
Móng giò làm sạch,ướp hạt nêm, dầu hào, hạt tiêu. Hoa chuối bóc lớp vỏ già bên ngoài, thái mỏng theo khoanh tròn ngâm nước có vắt thêm ít chanh để hoa chuối không bị thâm hoặc ngâm hoa chuối vào nước muối pha lẫn với mẻ, cách này làm hoa chuối vừa trắng lại vừa mềm hơn khi ăn, vớt ra rửa lại với nước.
Phi thơm hành và tỏi, cho móng giò vào xào qua cùng chút nước mắm, sau đó đổ lượng nước vừa ăn vào, đun sôi. Khi nước sôi thì cho me vào rồi hạ bớt lửa. Ninh móng giò cho đến khi móng giò gần nhừ thì vớt me ra dằm nát, lọc bỏ bã lấy nước me. Cho nước lọc me trở lại nồi rồi cho tiếp hoa chuối vào. Đun tiếp cho đến khi hoa chuối chín mềm thì rắc hành ngò thái nhỏ vào.
Hoa bưởi: cây bưởi có tên khoa học Citrus grandis (L.) Osbeck, thuộc họ cam (Rutaceae).
Trị ho, tiêu đờm: hoa bưởi 4g, hoa đậu một bát, nước gừng nửa thìa, đường phèn một thìa. Hoa bưởi rửa sạch cho vào nồi đun khoảng 10 phút sau đó bỏ bã lấy nước. Cho tiếp nước gừng, đường, hoa đậu vào rồi đun tiếp sau đó lấy ra ăn. Có tác dụng tiêu đờm, thông đại tiện.
Tiêu thực: hoa bưởi12g, chưng với trà uống tiêu thực (thức ăn ứ đọng), nấc, khí trệ, hay rên rỉ và ngáp vặt.
Hoa đu đủ: đu đủ còn có tên phan qua thụ, lô hong phlê (Campuchia), mắc hung (Lào), cà lào, phiên mộc.Tên khoa học: Carica papaya L. Họ Đu đủ papayaceae.
Viêm phế quản cấp: dùng hoa đu đủ đực phơi khô 20g, hấp với đường phèn 50g, ăn lúc còn ấm.
Chữa ho do viêm họng: hoa đu đủ đực 15g, xạ can 10g, củ mạch môn 10g, lá húng chanh 10g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít muối, hấp cơm rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2 - 3 lần, nuốt nước dần dần, dùng từ 3 - 5 ngày.
Chữa ho kèm theo mất tiếng: hoa đu đủ đực 15g, lá hẹ 15g, hạt chanh 10g. Tất cả để tươi, nghiền nát rồi hòa với 20ml nước, thêm ít mật ong hoặc đường kính trộn đều, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng trong 3 - 5 ngày.
Ho gà: hoa đu đủ đực 20g (sao vàng), vỏ quýt lâu năm 20g, vỏ rễ dâu 20g (tẩm mật sao lên), củ bách bộ 12g (phơi khô), phèn phi 12g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 3 lần. Trẻ em 1 - 5 tuổi mỗi lần uống 1- 4g; trẻ 6 - 10 tuổi mỗi lần uống 5 - 8g.
Hoặc hoa đu đủ đực, nghệ vàng mỗi thứ 15; trần bì 20g (tẩm nước gừng sao lên), vỏ rễ dâu (tẩm mật rồi sao), vỏ cây khế (sao vàng), chua me đất hoa vàng, cam thảo đất, lá chanh non mỗi thứ 30g; rau má, lá lốt mỗi thứ 40g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. Dùng trong 5 - 7 ngày.
Hoa bí đỏ: bí đỏ còn gọi là bí ngô, bí rợ, tên khoa học là Cucurbita pepo, họ Bầu bí. Dây bí đỏ mọc lan trên mặt đất.
Các nhà khoa học đã ghi nhận bông bí đỏ có rất nhiều điểm có lợi, đó là: ít chất béo bão hòa, không chứa cholesterol, ít sodium (Na), nhiều calcium (Ca), sắt (Fe), magnesium (Mg), potassium (K), phosphor (P), nhiều vitamin như niacin, riboflavin, thiamin, vitamin A.
Chỉ có 1 điểm không tốt là có đường (bông bí có vị ngọt), nhưng đây cũng là đường từ rau quả nên cũng dễ hấp thu và không có hại, màu vàng của bông bí được chứng minh là do beta-caroten, là chất chống oxy hóa tế bào (antioxidant).
Bông bí cũng chứa các hợp chất polyphenol (flavonoid) có tác dụng phòng bệnh tim mạch, huyết áp. Phòng bệnh loãng xương nhờ chứa nhiều khoáng tố như Ca, Mg. Bảo vệ và tăng cường thị lực, chống bệnh thoái hóa điểm vàng ở người lớn tuổi.
Trong 100g bông bí đỏ có chứa một nửa số lượng vitamin C và khoảng 40% vitamin cần thiết mỗi ngày, 5% mức tiêu thụ Fe, K, Ca và Mg, nhiều vitamin nhóm B và folat, đây là những chất rất tốt cho phụ nữ đang mang thai và giúp cho thai nhi phát triển hệ thần kinh tốt.
Đông y xem bông bí là loại dược liệu có tính mát, vị ngọt, tác dụng thanh nhiệt giải độc, làm mát cơ thể, nhuận tràng...
Hoa bí thanh nhiệt nhuận tràng nhưng hơi chát nên có tính thu sáp nhẹ. Thu sáp nên cầm mồ hôi, cố tinh.
Trợ dương: nhuyễn thể (nghêu, sò, ốc, hến) có khả năng cường dương, ăn với hoa bí để cố tinh, chống hoạt tinh. Cuốn nhuyễn thể vào trong hoa bí rồi xào nấu sẽ có một món ăn ngon lại tăng khả năng tình dục.
Hoa khế: thường sử dụng cây khế chua làm thuốc. Khế chua tên khoa học Averrhoa carambolaL., thuộc họ chua me đất (Oxalidaceae).
Trị ho trẻ em: hoa đu đủ đực, hoa khế, lá tía tô mỗi thứ 10g, đường phèn 5g.
Tất cả cho vào bát sứ, cho một ít nước lọc, đun cách thủy, để sôi nhỏ lửa càng lâu càng tốt. Để nguội hoặc cho vào chai thủy tinh không cho vào chai nhựa, không để vào tủ lạnh.
Hằng ngày, cho bé uống 1/2 thìa cà phê, uống bằng cách thấm dần ở đầu lưỡi, từ ít đến nhiều. Khi cho trẻ uống thuốc, bế trẻ sao cho đầu và cổ hơi cao so với bụng để tránh sặc, trớ, nôn.
Viêm phế quản cấp tính: dùng hoa khế tươi 30g, gừng (sao) 10g, nấu với 200ml nước sôi 5 phút, để uống lúc còn ấm.
Chứng nóng lạnh bất thường: 25g hoa khế tươi, sắc với nước uống ngày 2 lần.
Hoa mít: mít có tên khoa học là Artocarpus integrifolia Linn, thuộc họ dâu tằm (Moraceae).
Tăng tiết sữa: dùng cụm hoa đực (dân gian thường gọi là dái mít), hay quả non sắc uống để tăng tiết sữa.
Hoa mắc cỡ: tên khoa học Mimosa pudica L. Họ trinh nữ Mimosaeae. Các tên thường gọi: hoa trinh nữ, u thảo, hàm ưu mộc, thẹn mộc thảo, hoa xấu hổ.
Phụ nữ sau sinh, tiền mãn kinh, đau nhức khớp gối, đau bụng đột xuất (không do sung huyết): dùng 150g rễ, cây và hoa, phơi 2 nắng, thái khúc 2 - 3cm, nấu trong 800ml nước còn 200ml. Chia làm 4 phần (50ml/phần), uống trong ngày. Dùng trong 5 ngày.
Phụ nữ bị chứng bạch đái bốc mùi tanh, khó dứt, chỉ cần dùng lá và hoa mắc cỡ sắc thuốc uống trong 7 thang sẽ khỏi