Trong các tác phẩm nổi tiếng như “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Tùy Đường diễn nghĩa”, “Thủy Hử truyện”, hay các tiểu thuyết của Kim Dung, ta đều dễ dàng bắt gặp những hình tượng anh hùng với võ công cái thế.
Trong số đó, có những người lăn lộn sa trường, trở thành bậc dũng tướng bất bại; lại có những người cả đời hành tẩu giang hồ, trở thành những hiệp khách lừng danh.
Hình tượng của họ hiện lên như những bậc anh hùng võ dũng siêu phàm thoát tục, uy danh vang lừng, tên tuổi lưu truyền rộng rãi.
Trên thực tế, những người như vậy không chỉ tồn tại trong tiểu thuyết. Lịch sử Trung Quốc đã từng ghi nhận các tên tuổi võ thuật lừng danh với đủ loại võ công tuyệt kỹ.
Hoắc Nguyên Giáp – “cha đẻ” của Tinh Võ Môn
Hoắc Nguyên Giáp (1868 – 1910), tự là Tuấn Khanh, nguyên quán tại khu Thương Châu thuộc Đông Quang (Hà Bắc).
Ông được biết tới với danh hiệp “võ thuật gia yêu nước”, đồng thời còn là người sáng lập Tinh Võ Thể dục hội ( được biết tới với tên khác là Tinh Võ môn - một tổ chức võ thuật nhằm hệ thống hóa và phổ biến rộng rãi võ thuật truyền thống Trung Quốc).
Hoắc Nguyên Giáp là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền võ thuật Trung Quốc.
Năm Quang Tự thứ 27 (năm 1901), có một người Nga đến Thiên Tân mở rạp xiếc, tự xưng là “Đại lực sĩ đệ nhất thế giới”, còn khẳng định “không có địch thủ ở Trung Quốc”.
Hoắc Nguyên Giáp nghe được lời quảng cáo này, còn cho rằng người Nga này ăn nói bừa bãi, có ý khinh miệt người Trung Quốc không có tài cán gì, liền vô cùng tức giận.
Khi đến nơi, ông bắt gặp người Nga nọ đang khoác lác trên sân khấu, lại chê bai người Trung Quốc là những “con ma bệnh”.
Ngay lập tức, Hoắc Nguyên Giáp cầm vũ khí hiên ngang đi lên sân khấu, nói dứt khoát: “Hoắc Nguyên Giáp ta chính là ma bệnh Đông Á, muốn cùng ngươi tỉ thí tại đây.”
Võ sĩ người Nga kia nghe thấy đại danh Hoắc Nguyên Giáp từ phía phiên dịch, liền nhanh chóng mời ông vào hậu trường “bàn bạc”. Khi đó, Nguyên Giáp mới chất vấn người ngoại quốc này: "Vì sao dám nhục mạ Trung Hoa chúng ta”?
Sau đó, ông đưa ra ba điều kiện:
Một là phải bỏ đi danh hiệu “đệ nhất thế giới” mà người này tự rêu rao trên quảng cáo.
Hai là phải công khai nhận lỗi đã vũ nhục Trung Quốc và xin lỗi trước mặt mọi người.
Nếu hai điều kiện trên không được thực hiện, thì sẽ tiến hành điều kiện thứ ba: tỷ thí với Hoắc Nguyên Giáp.
Vị lực sĩ người Nga “ngoài mạnh trong yếu” này đương nhiên quyết định thực hiện hai điều kiện trước đó, sau đó nhanh chóng rời đi khỏi Thiên Tân.
Khi Hoắc Nguyên Giáp qua đời, đệ tử của Tinh Võ hội và giới võ thuật Thượng Hải cửu hành lễ tang vô cùng long trọng, còn kính tặng bốn chữ “thành thân thủ nghĩa”.
Vị võ thuật gia yêu nước này được an táng tại Thượng Hải, không lâu sau được đệ tử đưa về an táng tại quê nhà.
Tinh Võ môn Thượng Hải sau đó do em trai Hoắc Nguyên Giáp đảm nhiệm. Chưa tới 10 năm sau, hội đã có 43 phân hội trong nước, số hội viên lên tới hơn 40 vạn người.
Hoàng Phi Hồng – “Quảng Châu sư vương”
Hoàng Phi Hồng là con trai của Hoàng Kỳ Anh – một cao thủ đứng thứ tư trong “Quảng Đông thập hổ” (Quảng Đông khi đó có 10 nhân vật võ công-võ đức cực cao, hành hiệp trượng nghĩa, được mọi người tôn kính, giới võ lâm gọi là “Quảng Đông thập hổ”).
Phi Hồng từ năm 6 tuổi đã tập võ, tới năm 13 tuổi thì theo cha mãi nghệ, kế tục công phu gia truyền.
Sau này, ông gặp Thiết Kiều Tam (cũng là một cao thủ trong “Quảng Đông thập hổ”), sau đó tới thành Lâm Phúc học Thiết tuyến quyền, Phi đà tuyệt kỹ.
Phi Hồng còn học được Vô ảnh cước từ Tống Huy Thanh, nên võ nghệ nhanh chóng thăng tiến. Sau đó, ông tiếp tục theo cha tới núi Nhạc Thiện (Quảng Châu) mở võ quán, chiêu mộ đệ tử.
Hoàng Phi Hồng là bậc cao thủ được hậu thế trọng vọng nhờ công phu và đức độ.
Sau khi Hoàng Kỳ Anh qua đời, Phi Hồng kế thừa cơ nghiệp, trở thành một đại tông sư, cũng là tông sư võ thuật trẻ tuổi nhất trong giới võ thuật phía Nam.
Hoàng Phi Hồng còn từng được mời về dạy võ thuật trong quân đội của Đề đốc Ngô Toàn Mỹ và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc.
Tương truyền rằng, ông sở hữu nhiều tuyệt kỹ như Song phi đà, Tứ mẫu đao, La Hán bào, Vô ảnh cước, Thiết tuyến quyền, Đan song hổ trảo, Công tự phục hổ quyền, La Hán kim tiễn phiêu, Tứ tượng tiêu long côn và Giao da đại bá đẳng.
Nhờ công phu tuyệt đỉnh, ông được biết tới với danh hiệu “Hổ cuồng”, “Quảng Châu sư vương”.
Sở hữu võ nghệ cao cường, Phi Hồng càng tôn trọng “võ đức”. Ông thường quan niệm tập võ phải “lấy đức làm đầu”, dùng đức thu phục lòng người, càng không được ỷ mạnh hiếp yếu.
Bên cạnh đó, Hoàng Phi Hồng còn đi đầu trong việc bài trừ quan niệm trọng nam khinh nữ. Ông từng thu nhận rất nhiều đệ tử nữ, còn lập nên một đội nữ võ sư.
Cả đời phát huy sức mạnh của võ thuật quốc túy, lại hành hiệp trượng nghĩa, Phi Hồng không những để lại tiếng thơm muôn đời đối với hậu thế, mà còn trở thành võ thuật gia nổi tiếng trong và ngoài nước.
Đại Đao Vương Ngũ – vị anh hùng “cả đời hào hiệp”
Vương Ngũ là danh hiệp võ lâm nổi tiếng kinh thành, có tên thật là Vương Chính Nghị, tự Tử Bân, nguyên quán tại Hà Bắc, là người dân tộc Hồi.
Ông từng bái cao thủ song đao một thời là Lý Phụng Cương làm thầy, đứng hàng thứ 5 trong số các đệ tử, nên được gọi là “Tiểu Ngũ tử”, hay “Vương Ngũ”.
Sinh ra trong cảnh bần hàn, ba mất sớm, ông phải theo mẹ mưu sinh từ nhỏ. Sau này, nhờ bái Tiêu Hòa làm sư phụ, ông mới có nơi ở cố định để tập võ.
Để tu tập võ nghệ cao hơn, Vương Ngũ tìm đến Lý Phụng Cương bái sư. Nhưng Lý sư phụ khi ấy không muốn thu nhận, liền đóng cửa không tiếp. Vương Ngũ liền quỳ nhiều ngày ngoài cửa, thành ý làm cảm động sư phụ, nên được phá lệ thu nhận.
Quả nhiên sau đó, “tiểu Ngũ tử” không phụ sự gửi gắm của Lý Phụng Cương. Sau vài năm luyện tập, công phu của ông đã ngang ngửa sư phụ.
Hình ảnh hiếm hoi của Đại Đao Vương Ngũ - cao thủ "xả thân vì nghĩa".
Vương Ngũ có đao pháp thuần thục, nghĩa đức cao thượng, nên được người đời ca tụng là “Đại Đao Vương Ngũ”. Ông suốt đời hành hiệp trượng nghĩa, từng ủng hộ duy tân để dẹp yên quốc nạn, được coi là người “cả đời hào hiệp”.
Vương Ngũ còn là một trong trong thập đại cao thủ cuối thời Thanh được dân gian lưu truyền rộng rãi cùng với các tên tuổi như Yên Lý Tam, Hoắc Nguyên Giáp, Hoàng Phi Hồng.
Tham gia phong trào Duy Tân nhưng thất bại, Vương Ngũ bị xử tử, đầu bị treo trên cổng thành, người nhà cũng không cách nào đưa thi thể ông nhập liệm.
Hoắc Nguyên Giáp khi ấy đang ở Thiên Tân, nghe được tin này, liền một mình tới kinh thành, ban đêm đưa đầu của Vương Ngũ xuống, đích thân an táng.
Đổng Hải Xuyên – người sáng tạo ra “Bát quái chưởng”
Đổng Hải Xuyên sống dưới thời vua Gia Khánh ( 1797 – 1882) tại Hà Bắc. Khi còn nhỏ, ông đã được truyền thụ các loại quyền pháp.
Sau này ông xuống Giang Nam, tới Cửu Hoa Sơn gặp được Vân Bàn lão tổ truyền thụ võ nghệ. Qua mấy năm học hết kỳ nghệ, ông cáo biệt sư phụ.
Khi ấy, Hải Xuyên được sư phụ tặng một đôi búa cùng lời dặn: “Ta học võ nghệ đã tới hàng cao thủ của cao thủ, nhưng chuyển chưởng (tiền thân của Bát Quái chưởng) lại chưa luyện thành. Con hãy đem nó hoàn thiện để làm rạng danh sư môn.”
Đại sư Bát Quái chưởng Đổng Hải Xuyên.
Sau khi xuống núi, Đổng Hải Xuyên tới kinh thành, làm tạp dịch cho một vương phủ.
Trong một lần vương phủ tổ chức thi võ, ông đã cứu được một thủ lĩnh hộ vệ. Lúc này, vương gia biết được tài năng của Hải Xuyên, liền bảo ông biểu diễn tuyệt kỹ.
Đổng Hải Xuyên khi ấy biểu diễn chém đá, quyền pháp, lại thêm kỹ thuật chuyển chưởng, càng chuyển càng nhanh, thậm chí chân không chạm đất, liền được danh hiệu “lăng không bát bộ”.
Sau này, hai danh sư Thái cực quyền nổi tiếng nhất có Dương Lộ Thiền và Đổng Hải Xuyên.
Có giai thoại còn kể lại rằng, trước lúc qua đời, hai tay của Đổng Hải Xuyên vẫn để theo tư thế hoán chưởng cho đến lúc ngừng thở.
Bát Quái Chưởng của ông được lưu truyền trong và ngoài nước, cho tới nay vẫn giữ được vị thế.
Cam Phượng Trì – "đại hiệp Giang Nam"
Cam Phượng Trì là người Giang Tô, không rõ năm sinh năm mất, là một võ thuật gia nổi tiếng thời nhà Thanh.
Ông từng bái Hoàng Bách Gia và Nhất Niệm đại sư làm thầy, tinh thông quyền thuật trong và ngoài nước. Theo “Hoa quyền tổng giảng pháp”, ông còn được giang hồ ca tụng là “đại hiệp Giang Nam”.
Tên tuổi của Cam Phụng Trì từng gây chấn động với giới võ lâm bốn phương, trở thành nhân vật chính trong nhiều tác phẩm nghệ thuật đương thời.
Phụng Trì từ nhỏ đã không thích đọc sách, yêu thích võ nghệ, sớm kết giao với nhiều hiệp khách giang hồ. Khi còn niên thiếu, ông đã trở thành “tiểu anh hùng nhấc trâu đả hổ” nổi danh Giang Nam.
Sau đó, ông xuống phía đông Chiết Giang tìm thầy, đúng lúc lại gặp được Hoàng Bách Gia (con của nhà tư tưởng nổi tiếng Hoàng Tông Hy, cũng là một võ sư nổi tiếng), liền được thu nhận làm đệ tử để truyền thụ Nội gia quyền và võ thuật.
Ba năm sau, Hoàng sư phụ nói với Cam Phượng Trì: “Toàn bộ bản lĩnh của ta đều đã truyền cho con. Hôm nay trên núi Đại Lam cách huyện này 80 dặm có các anh hùng tụ hội để hành hiệp trượng nghĩa.
Con một thân luyện võ, trước là làm việc trượng nghĩa vì dân, sau là làm nên đại nghiệp kinh thiên động địa.”
Sau này, Cam Phượng Trì bái thêm Nhất Niệm đại sư học Thiếu Lâm quyền.
Không phụ công của hai vị sư phụ, cả đời Phượng Trì hành hiệp trượng nghĩa, còn làm nghề y để cứu dân giúp đời.
Có giai thoại còn truyền lại rằng, ông từng hiệp trợ cho Lã Tứ Nương vào cung ám sát Ung Chính. Tuy chưa có cơ sở chứng thực, nhưng điều này cũng nói lên Cam Phượng Trì có tư tưởng “phản Thanh phục Minh”.
Thích Kế Quang – danh tướng kháng Nhật nổi tiếng Minh triều
Thích Kế Quang là tác giả của nhiều bộ sách võ thuật, đồng thời cũng là một đại danh tướng, võ thuật gia nổi tiếng Minh triều.
Những binh sĩ được ông huấn luyện có thể “lấy một chọi mười”, được ca ngợi là “đội quân có sức chiến đấu mạnh nhất trong lịch sử Trung Hoa”.
Thích Kế Quang là người có nhiều đóng góp quan trọng cho quân đội Minh triều nói riêng và võ thuật Trung Hoa nói chung.
Ông tinh thông các loại vũ khi như đao, thương, kiếm, cung, kích,…nhưng lại coi trọng quyền pháp hơn cả.
Kế Quang cho rằng quyền pháp mặc dù không giống như thực chiến, nhưng quyền lại là “khởi nguồn của võ nghệ”, cũng là “cánh cửa nhập môn của người mới học”.
Cho nên, ông đã từ thế quyền đơn giản nhất, phát triển, biến hóa thành nhiều chiêu thức. Thích Kế Quang cải tiến quyền pháp, sau còn bái Nhất Cao tăng làm sư phụ để học thêm quyền thuật.
Cuối cùng, ông dựa vào sự kiên trì, kế thừa tinh hoa, sáng lập nên một bộ quyền pháp hữu dụng hoàn chỉnh có tên “Thích gia quyền”.
Quyền pháp của ông kết hợp hài hòa giữa đầu, khuỷu tay, đầu gối, hông, cước pháp kiêm dụng một chân. Những đòn như quật, đánh, quẳng, cầm, đá đều được áp dụng nhuần nhuyễn, tạo thành phong cách đặc biệt của “Thích gia quyền”
Nhưng ông vẫn chưa dừng lại ở đó mà còn đặc biệt nghiên cứu bắn súng và côn pháp. Thương pháp của ông được kế thừa từ tổ truyền, khi đó cũng vô cùng nổi tiếng.
Kế Quang còn đạt tới một cảnh giới mới của bắn súng. Ông thỉnh giáo danh gia Đường Thuận Chi, đưa bắn súng tới bước đột phá mới, còn được công nhận là xạ thủ lỗi lạc nhất thời bấy giờ.
Tướng kháng Oa (chỉ người Nhật) nổi tiếng là Du Đại Du khi đó tinh thông côn pháp, Thích Kế Khang cũng theo học hỏi.
Nhờ có kiến thức cơ bản, ông tiến bộ rất nhanh, lại thường thi đấu trong quân doanh. Trong một lần đấu tay đôi cùng Du Đại Du, Thích Kế Khang đã thắng cả vị sư phụ này.
Thích Kế Khang có tư chất vô cùng tốt, học xong Thiếu Lâm côn pháp, Thanh Phong côn pháp, Dương thị côn pháp. Ba thứ cung, quyền, côn pháp cùng thông thạo, khiến cho sử dụng thương, côn càng thêm kỹ càng.
Ông không chỉ tinh thông võ thuật Trung Hoa mà còn có tinh thần tiếp thu võ thuật nước ngoài.
Kế Quang từng kết hợp tinh hoa của kiếm pháp Nhật Bản và Trung Quốc, cải chế trường đao của Nhật Bản thành vũ khí cho quân đội Trung Hoa dùng.
Không chỉ tiếp thu và phát triển đao pháp, ông còn chế tạo ra “trúc xoa” (một cây trạc dài) chuyên để phá trường đao của quân Nhật.
Sau này, quân đội của Thích Kế Khang dùng loại vũ khí trên mà liên tiếp đại thắng quân Oa.
Trương Tùng Khê – người sáng lập phái võ Tùng Khê
Trương Tùng Khê sống vào thời Minh, là người gốc Chiết Giang. Ông là đệ tử của Tôn Thập Tam - còn được biết tới với tên Trương Tam Phong.
Theo tiểu thuyết “Ỷ Thiên đồ long ký”, Trương Tùng Khê là đệ tử thứ tư của Trương Tam Phong, cũng là một trong “Võ Đang thất hiệp”.
Quyền pháp của ông được đánh giá là quyền pháp tuyệt kỹ nổi tiếng nhất thời bấy giờ.
Tào Bỉnh Nhân trong “Ninh Ba phủ chí” từng đánh giá : “Trương Tùng Khê là người huyện Nhân (Chiết Giang), có sở trường là đánh quyền, sư phụ là Tôn Thập Tam – Trương Tam Phong.
Trương Tam Phong là người phái Võ Đang. Tam Phong sau đó đem quyền pháp truyền cho bốn người, trong đó Tùng Khê là nổi bật hơn cả.
Ông tính tình nghiêm cẩn như một nhà nho, gặp ai cũng rất cung kính. Có người xin học ông quyền pháp, ông từ chối nói là không có khả năng, hoặc lánh mặt không gặp.
Khi ấy, quyền thuật Thiếu Lâm vang danh khắp nước. Khi có giặc cướp nổi lên, bảy mươi nhà sư vâng chiếu tới trừ bọn giặc cỏ.
Những nhà sư này nghe danh Trương Tùng Khê nên đến Ngân Huyện xin gặp. Tuy nhiên Tùng Khê từ chối ra mặt.
Cùng lúc đó có một số thanh niên đến xin ông ra gặp họ một lần, ông đành phải nhận. Những nhà sư đang đối luyện võ nghệ tại một tửu lâu, Trương Tùng Khê đứng xem bất giác mỉm cười.
Chúng tăng hỏi ra biết là ông nên nhất định đòi tỉ thí. Trương bằng lòng nhưng đòi phải có người làm chứng, để phòng nếu có thương vong không ai bị phiền trách.
Khi đó Trương Tùng Khê đang ngồi bên bàn rượu, một nhà sư tiến tới tấn công, giơ chân đá vào ông. Trương lách qua lấy tay đẩy nhẹ, nhà sư bay bổng qua cửa sổ rớt xuống lầu. Cả bọn sư Thiếu Lâm kinh hãi phục tài ông.
Tùng Khê là thượng nghĩa, cẩn trọng, khiêm tốn, không thích mang sở trường ra khoe khoang cho thiên hạ.
Nội gia quyền pháp của ông chứa đựng cả nội gia và ngoại gia. Ngoại gia chính là quyền pháp Thiếu Lâm.
Môn quyền pháp này được truyền từ thời Tùng Khê là chính, là quyền pháp chủ yếu dùng chặn đối thủ, không gặp nguy khốn ắt không dùng, thế quyền vô cùng đẹp mắt.”
Nhạc Phi – danh tướng kháng Kim thời Nam Tống
Việc Nhạc Phi có phải là chủ nhân của “Hình ý quyền” hay không, cho tới nay vẫn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Nhưng dù không có bộ quyền pháp trên, ông vẫn luôn là một võ thuật gia nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Nhạc Phi là người huyện Thang Âm, Tương Châu (nay thuộc tỉnh Hà Nam – Trung Quốc). Theo “Thang Âm huyện chí” thì Nhạc Phi “còn chưa trưởng thành mà đã có thể kéo cây cung cứng nặng 150 cân, có thể nâng chiếc nỏ nặng 220 cân.”
Nhạc Phi võ nghệ cao cường, sau còn bái Chu Đồng làm thầy, học thêm xạ kích.
Vào năm 1122, ông theo người thầy thứ hai là Trần Quảng – xạ thủ nổi danh lúc bấy giờ. Sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của Nhạc Phi.
Trần Quảng khi ấy có truyền thụ cho ông cả công phu về vũ khí, lại cho ông có cơ hội thực chiến, áp dụng “quyền thuật” và “tài nghệ đao, thương”.
Nhờ sư phụ truyền dạy và tư chất vốn có, quyền pháp cùng thương pháp, đao pháp của Nhạc Phi vô cùng cao siêu, khi đó còn được mệnh danh là “vô địch trong huyện".
Nhạc Phi được hậu thế thờ phụng như bậc "Võ thánh".
Ông còn đặc biệt sùng bái hai danh tướng Tam Quốc là Trương Phi và Quan Vũ, từng mơ ước mình có thể trở thành bậc anh hùng vì nước, nên xung quân để thực hiện lý tưởng.
Ông quyết chí “tận trung báo quốc”, mỗi lần giao chiến đều xông pha đi đầu, làm gương cho binh sĩ. Trên chiến trường chống quân Kim, võ nghệ của ông được phát huy trọn vẹn và tiếp tục phát triển.
Cả đời chinh chiến, dốc lòng vì nước, trở thành danh tướng kháng Kim nổi tiếng, nhưng cuối cùng Nhạc Phi lại bị mang tội oan mà chết.
Sau này, bởi tài năng và nhân phẩm, ông được tôn làm “Võ thánh”, nhận được sự sùng bái của hậu thế và cả giới võ thuật Trung Hoa.
Không phải là một chính trị gia, nhưng tên tuổi của ông được nhắc tới như một anh hùng thiện chiến, võ nghệ tuyệt luân, một nhà quân sự và võ thuật gia đại tài.