Súng máy Vickers phiên bản 7,7mm của Anh. Ảnh: Plane Encyclopedia.
Nguồn gốc
Gốc gác của súng Vickers là khẩu Maxim từng nổi tiếng vào thập niên 1888 với vai trò là vũ khí chết người của quân đội Đế chế Anh.
Khẩu súng máy này cực kỳ hiệu quả nhờ vào cách nạp đạn thông qua độ giật của súng khi bắn – mỗi lần súng giật, vỏ đạn sẽ được đẩy ra và viên đạn mới được nhét vào buồng đạn. Súng cũng sử dụng phương pháp làm mát bằng nước để đạt hiệu quả tối đa, từ đó có thể bắn liên tục trong thời gian dài.
Thiết kế sáng tạo
Vickers cải tiến thiết kế của súng này bằng cách làm nhẹ trọng lượng tổng thể của súng cũng như đơn giản hóa và gia cố các linh kiện bên trong cơ cấu súng.
Một cải tiến đáng kể khác là việc thêm bộ phận tăng áp miệng súng, giúp hạn chế thoát khí áp lực cao khỏi nòng súng, tạo thêm năng lượng cho chuyển động về phía sau của nòng súng mà không làm gia tăng lực giật.
Súng Vickers thu được danh tiếng ngay khi được ra mắt vào năm 1912. Dù cồng kềnh và nặng tới 15kg (chưa tính đạn và nước), súng này vẫn được các kíp chiến đấu ca ngợi về tính ổn định. Nhờ làm mát bằng nước, súng về lý thuyết có thể bắn không ngừng nghỉ, chỉ cần thay một nòng súng sau khoảng 1 tiếng hoạt động.
Phiên bản gắn trên máy bay
Lần đầu tiên súng Vickers được sử dụng trên máy bay là khi Vickers thử nghiệm trên nguyên mẫu máy bay 2 tầng cánh của ông – đây là chiếc phi cơ Anh đầu tiên được thiết kế cho mục đích quân sự. Khẩu súng được chỉnh sửa chút xíu để có thể sử dụng trên máy bay.
Hệ thống làm lạnh bằng nước được cho là không cần thiết nhờ vào dư thừa dòng khí mát chuyển động nhanh qua nòng súng trong chuyến bay. Tuy vậy, người ta vẫn phải giữ lại cái vỏ nước do cơ chế hoạt động của nòng súng, đồng thời thêm vào một số khe làm mát bằng không khí.
Bộ phận đai nạp đạn cũng được che chắn để khỏi bị xoắn vì gió mạnh.
Súng máy Vickers gắn trên một phi cơ trinh sát Bristol Scout. Ảnh: Plane Encyclopedia.
Thiết kế khóa nòng đóng của súng Vickers cho phép súng bắn theo hướng về phía trước do dễ dàng tích hợp với hệ thống đồng bộ hóa, nhờ đó súng có khả năng bắn xuyên qua vòng quay của cánh quạt máy bay. Đối với cơ chế bắn bằng khóa nòng đóng, gần như không có trì hoãn nào giữa việc kéo cò và việc đạn nổ, khác với thiết kế mở của súng Lewis.
Hãng Colt có được bằng chế tạo súng máy Vickers ở Mỹ và nhận được đơn đặt hàng của Nga vào năm 1916 để sản xuất lượng lớn vũ khí này. Sau khi Cách mạng Nga bắt đầu nổ ra vào đầu năm 1917, đơn đặt hàng này bị hủy.
Hàng ngàn khẩu súng loại này đã được sản xuất xong nhưng đành để lại trong kho, chờ như vậy cho đến khi châu Âu cần một loại súng máy có thể bắn đạn lửa cỡ lớn để tiêu diệt các khinh khí cầu Đức. Lúc này người ta quyết định sử dụng đạn Pháp cỡ 11mm.
Các khẩu súng được chế để đáp ứng nhu cầu của Nga về cỡ 7,62mm đã được thay đổi cho phù hợp với đạn 11m. Ngoài ra súng cũng được chỉnh sửa để phù hợp với máy bay.
Di sản
Phiên bản Vickers dùng cho máy bay cho tới nay là vũ khí được dùng nhiều nhất trên các máy bay tiêm kích của Anh và Pháp trong Thế chiến 1 . Một số khẩu còn được sử dụng đến tận cuối Thế chiến 2.
Hầu hết các tiêm kích cơ được phát triển vào đầu Thế chiến 1 đều có dùng một khẩu Vickers 7,7mm duy nhất, như là trên máy bay ba tầng cánh Sopwith. Về sau các tiêm kích như Sopwith Camel có khả năng tăng gấp đôi hỏa lực của mình bằng các cặp súng đồng bộ hóa.
Các tiến bộ về thiết kế phi cơ diễn ra trong thập niên 1930 đã giúp người ta bố trí vũ khí ra cánh máy bay, nhờ đó có thể gắn lên máy bay khẩu Browning 1919 – một loại súng máy to hơn, mạnh hơn với tốc độ bắn lớn hơn. Tuy vậy, khẩu Vickers vẫn được dùng làm vũ khí của lục quân Anh cho tới năm 1968./.