Chứng tỳ vị hư nhược: Đau bụng âm ỉ, đầy trướng, sôi bụng, chườm nóng đỡ đau. Người mệt mỏi, ăn kém chậm tiêu, đại tiện thường nát lỏng, chất lưỡi bệu có hằn răng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm nhược.
Các vị thuốc thường dùng là nhân sâm, bạch linh, bạch truật, cam thảo, sa nhân, trần bì, cát cánh, biển đậu, sơn dược, liên tử nhục, ý dĩ nhân.
Chứng thận dương hư suy: Trước khi trời sáng xuất hiện đau bụng vùng quanh rốn, sôi bụng rồi ỉa đại tiện lỏng (ngũ canh tả), sau đại tiện thì giảm đau.
Cơ thể lạnh, chân tay lạnh, lưng gối mỏi yếu, lưỡi nhạt râu trắng, mạch trầm tế. Bài thuốc thường dùng là phá cố chỉ, nhục đậu khấu, ngô thù du, ngũ vị tử, phụ tử, bào khương.
Chứng can khí thừa tỳ: Đầy trướng mạng sườn, ợ hơi ăn ít, mỗi khi do uất ức phiền nộ hoặc tinh thần căng thẳng liền phát sinh đau bụng ỉa chảy, sôi bụng lan chuyển, lưỡi hồng nhạt mạch huyền. Các vị thuốc thường dùng là bạch thược, bạch truật, phòng phong.
Các vị thuốc trên tùy vào cơ thể và bệnh tật mỗi người mà có liều lượng khác nhau, vì vậy, bệnh nhân nên thăm khám để được kê đơn đúng liều và sắc thường xuyên, ngày uống 3 lần.
Theo ThS.BS Nguyễn Thị Hằng
Khoa học & Đời sống