Cây hẹ (Allium ramosum L., họ Hành Alliaceae), còn tên gọi khác là hẹ thường, cửu thái, khởi dương thảo. Ở Việt Nam cây hẹ được trồng trong cả nước, từ đồng bằng đến vùng núi.
Ở miền Nam, cây được trồng hầu khắp các tỉnh từ Bà Rịa – Vũng Tàu đến Kiên Giang. Là loại cây thân thảo sống lâu năm. Cây nhỏ, cao 20 – 50cm, mọc đứng, hình trụ hoặc có góc ở đầu. Thân chỉ vươn cao khi cây hẹ đã già, cuối ngọn thân mang một chùm hoa. Lá mọc ở gốc, hình dải hẹp, nửa hình trụ, dài 15 – 60cm, rộng 1,5 – 4mm.
Hoa trắng mọc thành tán ở đầu một cán hoa dài 20 – 30cm hay hơn. Tán gồm 20 – 40 hoa có mo bao bọc, 3 – 4 lần ngắn hơn tán hoa; bao hoa màu trắng, gồm nhiều phiến thuôn mũi mác. Quả nang, hình trái xoan ngược chia ra 3 mảnh; 6 hạt nhỏ, màu đen. Ra hoa từ tháng 7 – 8, quả tháng 8 – 9. Hạt nhỏ, nằm trong quả nang, khi lấy hạt phải đập bể vỏ quả. Cây hẹ có thể nhân giống bằng sinh sản vô tính như tách chồi để trồng và có thể trồng bằng hạt. Cây sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện khí hậu nóng và ẩm.
Đông y cho rằng, lá hẹ có vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Nếu thường xuyên ăn canh hẹ sẽ giúp nam giới cường tinh lực, bồi bổ gan thận. Lá hẹ cũng rất tốt đối với phụ nữ có thai khi bị nhiễm lạnh, phụ nữ sau khi sinh bị chóng mặt. Củ hẹ có vị cay ngọt được dùng trong các bài thuốc chữa tiểu tiện nhiều lần.
Hạt hẹ có vị cay, ngọt, tính ấm, có tác dụng ôn trung, trợ vị khí, điều hoà tạng phủ, hạ nghịch khí, cố thận tinh, tán ứ huyết. Hẹ là thức ăn vị thuốc có tác dụng tốt nhất về mùa xuân. Vào thời điểm này, chất lượng làm thuốc của hẹ cao hơn.
Sách Nội kinh có viết: "Xuân hạ dưỡng dương", nghĩa là mùa xuân cần ăn các món ôn bổ dương khí. Hẹ nằm trong nhóm thức ăn đó. Còn Bản thảo thập di viết: "Rau hẹ là ấm nhất, có ích cho người, nên ăn thường xuyên".
Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất công hiệu. Hẹ kỵ với mật ong và thịt trâu. Không nên sử dụng lâu dài và đối với những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt.
Dưới đây là 10 phương thuốc trị bệnh từ hẹ
* Ho khò khè ở trẻ em: Lá hẹ hấp cơm lấy nước cho trẻ uống. Hay lá hẹ hấp với đường đặt trong nồi cơm hoặc đun cách thuỷ lấy nước cho uống.
* Cảm mạo, ho do lạnh: Hẹ 250g, gừng tươi 25g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái uống nước.
* Trị đái dầm, ỉa chảy lâu ngày ở trẻ em: Nấu cháo rễ hẹ. Rễ hẹ tươi 25g, gạo 50g, rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.
* Nấc do lạnh: Uống một bát nước hẹ đã giã nát và lọc bỏ bã. (Trong “Thiên kim tập ký” có kể lại chuyện: Thiên hoàng tự nhiên bị nấc suốt ngày. Các ngự y đã đến khám và sau đó thiên hoàng khỏi bệnh chỉ bằng bài thuốc dùng nước hẹ pha rượu “hùng hoàng”).
* Trị giun kim: Rễ hẹ giã lấy nước cho uống. Hay sắc lá hẹ hoặc rễ hẹ lấy nước uống.
* Trị thối tai (viêm tai giữa): Lá hẹ 1 nắm rửa kỹ, giã nhuyễn lấy nước nhỏ vào tai cho đến khi khỏi.
* Côn trùng bò vào tai: Lá hẹ vắt lấy nước nhỏ vào tai ít giọt, côn trùng sẽ bò ra ngay.
* Di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương: 0,5kg lá hẹ tươi giã lấy nước, uống ngày 2 lần trong một tuần.
* Chữa đi tiểu nhiều lần: Lá hẹ, cây tơ hồng xanh, ngũ vị tử, phúc bồn tử, câu kỷ tử, nữ trinh tử. Lượng bằng nhau. Phơi khô tán bột, mỗi lần uống 6g. Ngày uống 2 lần chiêu với nước còn ấm. Hay dung lá hẹ 30g, phúc bồn tử 1,5g, dây tơ hồng xanh 20g. Sấy khô tán bột hoàn viên. Dùng mỗi lần 3g, ngày 3 lần.
* Cung đình hồi xuân tửu: Hạt hẹ 20g, câu kỷ 30g, ba kích 15g, hồng sâm 20g, lộc nhung lát 10g, đường phèn 200g, rượu trắng 200g. Ngâm nửa tháng trở ra thì dùng được.