Tiêu chuẩn khắt khe để trở thành ngự tiền thị vệ
Hoàng đế là người đứng trên vạn người, ngồi trên vị trí đế tôn, tính mạng luôn trong tình trạng bị đe dọa. Do đó, hoàng đế cần phải có một đội ngũ võ quan bảo vệ. Thị vệ chính là những võ quan sẽ đảm nhận nhiệm vụ quan trọng đó.
Ngự tiền thị vệ là lực lượng quân sự được tuyển chọn từ con em các gia tộc thuộc Bát Kỳ Mãn Châu và Mông Cổ, có trách nhiệm canh giữ các cổng trong Tử Cấm Thành, bảo vệ hoàng đế và hoàng tộc.
Ngự tiền thị vệ là đội quân có trách nhiệm canh giữ các cổng trong Tử Cấm Thành, bảo vệ hoàng đế và hoàng tộc. (Ảnh: Sohu)
Các thị vệ trong Tử Cấm Thành chỉ được tuyển chọn từ Bát Kỳ Mãn châu và đa số họ thuộc Thượng tam kỳ là Tương Hoàng kỳ, Chính Hoàng kỳ và Chính Bạch kỳ. Đây là lực lượng bảo vệ thân cận nhất của hoàng đế.
Đội thị vệ trong Tử Cấm Thành thường được chia làm 4 bậc cơ bản gồm:
- Nhất đẳng thị vệ hay còn gọi là Đầu đẳng thị vệ, thuộc hàm Chính tam phẩm, tuyển 60 người.
- Nhị đẳng thị vệ, hàm Chính tứ phẩm, tuyển 150 người.
- Tam đẳng thị vệ, hàm Chính ngũ phẩm, tuyển 270 người.
- Tứ đẳng thị vệ hay còn gọi là Lam Linh thị vệ, hàm Chính lục phẩm, tuyển 90 người.
- Ngoài ra, từ thời Khang hi, có thêm 3 bậc thị vệ khác nhưng cũng chỉ tuyển tông thất.
Riêng ngự tiền thị vệ và Càn Thanh môn thị vệ là có sự khác biệt so với thị vệ những nơi khác. Họ đều do đích thân hoàng đế chọn lựa. (Ảnh: Sohu)
Riêng ngự tiền thị vệ và Càn Thanh môn thị vệ là có sự khác biệt so với thị vệ những nơi khác. Họ đều do đích thân hoàng đế chọn lựa. Họ thường là con nhà quý thích, hoặc có dị tài thì mới được vào. Các ngự tiền thị vệ và Càn Thanh môn thị vệ đều trực thuộc trực tiếp từ Ngự tiền đại thần, mà không phải lĩnh thị vệ nội đại thần như các thị vệ khác. Chịu sự quản hạt của một cấp bậc có uy thế như vậy, hiển nhiên ngự tiền thị vệ cùng Càn Thanh môn thị vệ là 2 hạng thị vệ có đãi ngộ cao cấp nhất triều Thanh, trừ bổng lộc dựa theo cấp bậc, thì họ còn thường xuyên được thưởng thêm như dịp sinh thần của hoàng đế và hoàng hậu.
Ngoài ra, những người làm thị vệ dưới thời nhà Thanh, đặc biệt là các ngự tiền thị về thường có tiền đồ hết sức xán lạn. Một số nhân vật nổi tiếng đã gây dựng sự nghiệp trên chốn quan trường của mình từ vị trí này có Triểu Chiêu, Sách Ngạch Đồ, Hô Nhĩ Hán, Long Khoa Đa, Hòa Thân…
Vào thời bấy giờ, gia đình nào có con trai được làm thị vệ đều cho đó là sự may mắn. Thậm chí, nếu hậu duệ của họ được thăng chức ngự tiền thị vệ, tại phủ đệ sẽ treo bảng bố cáo thiên hạ, lấy đó là vinh dự.
Qua đây có thể thấy, tầng lớp thị vệ không chỉ là một chức quan thông thường làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ như chúng ta thường nghĩ, mà địa vị của họ trong xã hội thời xưa tương đối cao.
Nhà Thanh sụp đổ, ngự tiền thị vệ đi về đâu?
Tuy nhiên, vào năm 1900, liên quan 8 nước gồm Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nga, Nhật, Áo và Italia đã cùng nhau đưa quân xâm lược Trung Quốc, với mục tiêu vô cùng rõ ràng đó là đưa quân tấn công thẳng vào kinh thành Bắc Kinh. Chẳng mấy chốc, kinh thành Bắc Kinh đã thất thủ.
Khi liên quân 8 nước tấn công vào kinh thành, đội quân thị vệ không hề bảo vệ Tử Cấm Thành. (Ảnh: Sohu)
Từ Hi thái hậu hay tin liên quân 8 nước sắp tiến vào hoàng cung, hoảng sợ liền sai người tới sứ quán của quân xâm lược cầu hòa nhưng không được. Thấy vậy, Từ Hi thái hậu liền mang theo hoàng đế Quang Tự và nhiều thân thích, hầu cận cải trang thành dân thường lặng lẽ trốn tới Tây An. Đội quân thị vệ không hề bảo vệ Tử Cấm Thành, họ thậm chí còn bỏ chạy. Các quý tộc và văn võ đại thần cũng đua nhau rời bỏ kinh thành. Bắc Kinh chẳng mấy chốc rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Từ Hi Thái Hậu nhường quyền kiểm soát Bắc Kinh cho phương Tây trong hơn một năm, cho đến khi ký kết hòa ước vào năm 1901. Hòa ước bao gồm các điều khoản có lợi cho phương Tây, buộc nhà Thanh phải bồi thường 450 triệu lạng bạc trong 39 năm, với mức lãi suất 4%/năm.
Nhiếp chính vương Thuần Thân vương Tái Phong đã quyết định thành lập đội quân thị vệ kiểu mới hay còn gọi là Tân quân. (Ảnh: Sohu)
Mãi tới khi Phổ Nghi lên ngôi, Nhiếp chính vương Thuần Thân vương Tái Phong đã quyết định thành lập đội quân thị vệ kiểu mới hay còn gọi là Tân quân. Lần này, các thị vệ được lựa chọn cẩn thận, đều là những tinh hoa. Ngoài ra, họ còn được huấn luyện theo phương pháp chiến đấu của phương Tây, trang bị súng, vũ khí đều là hàng nước ngoài cao cấp. Người đứng đầu của đội quân thị vệ mới này là Tái Tuần, em trai của Tái Phong dù khi đó người này mới chỉ 22 tuổi.
Thế nhưng, ngay khi đội thị vệ mới hoàn thành đợt huấn luyện đầu tiên, cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã nổ ra nhằm lật đổ triều đại Mãn Thanh. Tái Tuần còn quá trẻ, không có kinh nghiệm thực chiến nên đội quân thị vệ đã thua đau đớn. Triều đình nhà Thanh buộc phải cầu cứu Viên Thế Khải, một đại thần trong triều và cũng là người từng liên minh với Từ Hi Thái hậu và giúp chấm dứt Bách nhật duy tân của Hoàng đế Quang Tự đến trấn áp quân nổi dậy.
Đội quân thị vệ kiểu mới được huấn luyện theo phương pháp chiến đấu của phương Tây, trang bị súng, vũ khí đều là hàng nước ngoài cao cấp. (Ảnh: Sohu)
Viên Thế Khải từ lâu đã để mắt tới đội quân thị vệ kiểu mới nên ông ta chắc chắn khó lòng bỏ qua cơ hội này. Ngay sau đó, ông yêu cầu cha của Hoàng đế Phổ Nghi rút lui khỏi chính trường, Tái Phong buộc phải từ chức Đại Thanh Nhiếp Chính vương. Điều này đã mở đường cho Viên Thế Khải thành lập một nội các thân tín mới.
Sau đó, Viên Thế Khải đã tham gia đàm phán với những người cách mạng của Tôn Trung Sơn và sắp xếp việc thoái vị của hoàng đế Phổ Nghi, dẫn đến sự sụp đổ của triều đại Nhà Thanh.
Sau khi nhà Thanh sụp đổ, đội quân thị vệ kiểu mới đã chọn đi theo Viên Thế Khải. (Ảnh: Sohu)
Mặt khác, Viên Thế Khải đã hứa hẹn rằng mình sẽ đảm bảo tương lai no đủ của đội quân ngự tiền thị vệ nên họ đã "khoanh tay đứng nhìn" khi triều đình xảy ra chuyện. Sau đó, Viên Thế Khải nhanh chóng đưa bạn thân của mình là Phùng Quốc Chương lên làm chỉ huy đội quân ngự tiền thị vệ thay thế Tái Tuần.
Viên Thế Khải trở thành Đại Tổng thống lâm thời và Đại Tổng thống Trung Hoa Dân quốc; sau lại thỏa hiệp cho Nhật chiếm đóng một phần lãnh thổ để được họ giúp lên ngôi hoàng đế. Nhưng việc chưa đi đến đâu thì Viên Thế Khải đã chết vì "tức giận" sau khi làm Hoàng đế được 83 ngày. Sau các chết của Viên Thế Khải, nội bộ quân Bắc Dương không có ai có đủ khả năng chỉ huy cũng như nắm trọn chính quyền, từ đó dẫn đến sự phân liệt.