Theo đại diện Viện kiểm sát, về vấn đề chỉ định thầu, tại phiên tòa bị cáo Đinh La Thăng khai việc PVN chỉ định thầu với PVC tại nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 xuất phát từ chủ trương theo Kết luận số 41 năm 2016.
Kết luận số 41 của Bộ Chính trị khóa 10 đưa ra chiến lược phát triển ngành dầu khí đến năm 2015 ngành kinh tế quan trọng bao gồm tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến.... xây dựng tập đoàn dầu khí vững mạnh, kinh doanh trong nước, quốc tế…
Như vậy, Kết luận 41 không đưa ra các quy định cụ thể, không đề cập đến Dự án nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 và càng không đề cập đến việc chỉ định thầu cụ thể.
Chính phủ tại công văn 906 trả lời văn bản của PVN do ông Đinh La Thăng ký về việc đề xuất cho PVC làm tổng thầu dự án thông báo ý kiến của Thủ tướng, trong đó, Thủ tướng chỉ đạo PVN lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm thực hiện, có hồ sơ mời thầu, đảm bảo tiến độ…
Như vậy có đủ cơ sở khẳng định, Chính phủ không có bất cứ văn bản nào đồng ý cho PVN lựa chọn PVC làm nhà thầu như một số luật sư đề cập mà Chính phủ yêu cầu phải chọn nhà thầu có đủ kinh nghiệm, năng lực.
Qua đó, đặt ra câu hỏi, PVN có thực hiện đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ không? và năng lực thực sự của PVC như thế nào?
VKS nhận định có dấu hiệu lợi ích nhóm
Về vấn đề có hay không có lợi ích nhóm, theo đại diện VKS, xét về mối quan hệ cho thấy, bị cáo Vũ Đức Thuận, Trịnh Xuân Thanh đều do bị cáo Đinh La Thăng có vai trò quyết định trong việc tiếp nhận về PVN và được cất nhắc vào các chức vụ.
Đại diện VKS
Xuất phát từ các mối quan hệ đã có, như đã phân tích, mặc dù biết PVC đang có khó khăn tài chính, không đủ năng lực thi công dự án Nhiệt điện Thái Bình 2, để tạo điều kiện cho PVC, Đinh La Thăng đã ưu ái, bỏ qua các quy định của pháp luật để chỉ định PVC làm tổng thầu dự án.
Sau đó, chỉ đạo các bị cáo tại PVN và các đối tượng liên quan tại PVPower ký hợp đồng EPC và tạm ứng tiền cho PVC trái quy định của pháp luật, để bị cáo Thanh và đồng phạm tại PVC sử dụng số tiền trên trái mục đích, gây thiệt hại cho Nhà nước. Qua đó, thấy rõ mối quan hệ mang tính lợi ích nhóm trong vụ án.
Về nhận định của một số bị cáo, một số quan điểm của luật sư bào chữa bị cáo không đồng tình với phần luận tội của VKS là các bị cáo không thành khẩn khai báo, quanh co, chối tội, theo đại diện VKS cần hiểu rõ hai vấn đề như sau, quyền của bị cáo theo quy định của Bộ Luật Tố tụng và nhận định, đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng với thái độ, nhận thức của bị cáo đối với hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khi xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo thấy rằng, mặc dù theo VKS đủ cơ sở buộc tội bị cáo về hành vi cố ý làm trái cũng như tham ô nhưng các bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa đều không thừa nhận cho rằng sai phạm của cấp dưới. Các bị cáo chỉ chịu trách nhiệm thiếu kiểm tra, kiểm soát dẫn đến hậu quả.
Do đó, VKS không cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm f khoản 1 điều 51 Bộ Luật LS năm 2015.Tình tiết giảm nhẹ chỉ được hiểu là các bị cáo thành thật khai báo và ăn năn hối hận về hành vi đó.
Trong phần xét hỏi, những câu hỏi này cũng đã được đặt ra với điều tra viên và điều tra viên cũng đã trả lời rõ quan điểm. Đây cũng là quan điểm VKS đưa ra khi đánh giá về tăng nặng, giảm nhẹ với hành vi của các bị cáo gây ra còn chấp nhận hay không là do HĐXX.
Hợp đồng số 3 chỉ là sự phù phép cho việc PVC rút tiền từ PVN
Liên quan đến việc tạm ứng, theo đại diện VKS, ngày 2/12/2010 và 7/12/2010, Chủ tịch và TGĐ PVPower đã có văn bản báo cáo ông Đinh La Thăng và Phùng Đình Thực về việc nếu chuyển đổi công nghệ thì dự kiến phải tháng 6/2011 mới ký kết được hợp đồng EPC do phải lập dự án đầu tư hiệu chỉnh, lập thiết kế kỹ thuật hiệu chỉnh, lập tổng dự toán...
Ngày 24/2/2011, bị cáo Đinh la Thăng kí phê duyệt thiết kế hiệu chỉnh dự án và ủy quyền cho HĐTV PVPower phê duyệt dự án đầu tư. VKS cho rằng thời điểm này ông Thăng đã biết được dự án đầu tư hiệu chỉnh chưa được lập nhưng chỉ 4 ngày sau (ngày 28/02), PVPower và PVC đã ký hợp đồng 33 trong khi chưa có tổng dự án, chưa có hồ sơ yêu cầu, hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu...
Chính phủ không có bất cứ văn bản nào đồng ý cho PVN lựa chọn PVC làm nhà thầu như một số luật sư đề cập
"Hợp đồng 33 có nhiều nội dung không có thời hạn, tức là lập khống về tài liệu", VKS kết luận. Cũng theo VKS, ngày 13/5/2011, Phó TGĐ Nguyễn Quốc Khánh đã thay mặt PVN cùng với PVC và PVPower ký hợp đồng 4194 điều chỉnh chủ thể hợp đồng, từ PVPower sang PVN.
Hợp đồng này cũng chỉ có hai trang, với nội dung PVN nhận và kế thừa mọi trách nhiệm của PVPOwer. VKS sau đó dẫn lời khai của bị cáo Vũ Hồng Chương tại tòa khai, hợp đồng EPC (số 33) gì mà chỉ có 8 trang, hợp đồng 4193 cũng chỉ có hai trang. Hợp đồng 33 chỉ là sự phù phép cho việc PVC rút tiền từ PVN.
"Việc ký hợp đồng số 33 cùng với việc PVN tạm ứng tiền cho PVC trái quy định cho thấy thực chất việc ký kết hợp đồng không phải là để PVN tạm ứng cho PVC thực hiện gói thầu Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 mà chỉ là nhằm mục đích hợp thức việc chuyển tiền cho PVC", VKS nhận định.
Liên quan đến việc thu hồi tiền của PVC, theo đại diện VKS, việc PVC thu hồi 1240 tỉ đồng (tính đến 13/9/2016) là việc thu hồi trong nội bộ tại PVC, không liên quan đến việc thu hồi tiền của chủ đầu tư là PVN đối với số tiền đã tạm ứng cho PVC nhưng không được sử dụng đúng mục đích.
Theo VKS, PVC đã chiếm dụng của PVN 1115 tỉ đồng. Số thiệt hại được tính trong kết luận giám định chỉ dừng ở ngày 20/3/2012, cách xa thời điểm PVCN thu hồi số tiền tạm ứng cho PVC là 20/11/2017 (với số tiền 1080 tỉ đồng).
Đại diện VKS khẳng định, "không có căn cứ nào cho rằng PVC đã thu hồi thừa số tiền tạm ứng như luật sư và các bị cáo đã nêu".
Liên quan đến việc xác định hậu quả thiệt hại, VKS cho rằng, trước khi xác định việc PVN tạm ứng cho PVC có làm lợi cho PVC hay không thì phải xác định hành vi của PVN tạm ứng có đúng pháp luật hay không, PVC có được phép sử dụng hay không? Sau khi biết PVC sử dụng tiền tạm ứng sai mục đích thì PVN có thu hồi lại không?...
Theo VKS, trong vụ án này, việc xác định thiệt hại được căn cứ vào khoản 3 điều 608 BLDS năm 2015. "Số thiệt hại đã được xác định là số tiền có lợi cho các bị cáo", VKS khẳng định.
Cũng theo VKS, số tiền tạm ứng cho PVC, năm 2011 PVC chỉ chi 196 tỉ đồng cho dự án. Cả 2012 hầu như chi rất ít cho dự án, với số tiền khoảng 75 tỷ đồng, chủ yếu là chi phí quản lý vì chưa có thiết kế kỹ thuật...
Đại diện VKS khẳng định thiệt hại hơn 119 tỷ đồng
Đại diện VKS cũng đưa ra luận cứ, hoàn toàn có có sở khẳng định, số tiền thiệt hại trong vụ án là hơn 119 tỷ đồng. Quan điểm của các luật sư và bị cáo cho rằng- việc tạm ứng là không thiệt hại, hoặc thiệt hại không đáng kể là không có sở.
Trong phần tranh luận của mình, đại diện VKS đối đáp với các luật sư về đề nghị làm rõ cơ sở pháp luật nào đánh giá bị cáo Đinh La Thăng phạm tội cố ý làm trái?
Về vấn đề này, đại diện VKS đưa ra quan điểm: Về tổng quan PVN là công ty Nhà nước. Chính phủ giao cho PVN phải kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát triển vốn và hoàn thành các nhiệm vụ khác. Nhà nước là chủ sở hữu của PVN, còn bị cáo Đinh La Thăng được giao chức Chủ tịch HĐTV, điều đó có nghĩa, toàn bộ tài sản dù nhỏ nhất của PVN đã được nhân dân giao phó cho bị cáo Thăng để phát huy giá trị tài sản của nhân dân tại PVN.
Bị cáo Đinh La Thăng phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo Đinh La Thăng đã chỉ đạo lựa chọn tổng thầu sai quy định như cáo trạng nêu...Đại diện VKS đưa ra các căn cứ để trả lời đặt câu hỏi: Phải chăng ngay từ đầu, ông Đinh La Thăng đã nhắm tới PVC để được thực hiện Dự án NMNĐ Thái Bình 2.
"Rất buồn trong vụ án này, thời gian xét xử vừa qua, chúng tôi là cơ quan truy tố buồn nhất không phải là phần bào chữa của bị cáo Thăng mà buồn là cấp dưới thì thừa nhận sai phạm, xin có chính sách nhân đạo nhưng cấp trên không ai nhận sai", đại diện VKS nêu rõ.
Nhiều bị cáo khẳng định ký HĐ33 theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh
Theo đại diện Viện kiểm sát, tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo đã thể hiện vai trò của bị cáo Trịnh Xuân Thanh trong việc ký hợp đồng 33, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của PVC trong quá trình bị cáo Thanh đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch HĐQT tại PVC.
Đại diện VKS, đánh giá rất cao nội dung tự bào chữa của bị cáo Nguyễn Mạnh Tiến phù hợp với chứng cứ của VKS, bào chữa của luật sư, qua đó làm rõ vai trò của Trịnh Xuân Thanh.
Về tài liệu chứng minh, bị cáo Trịnh Xuân Thanh biết rõ khi được tham gia ký hợp đồng 33 thì thiết kỹ thuật, hồ sơ đều chưa có. Ngày 25/2/2011, PVC có công văn gửi PVN cam kết hoàn thiện chi tiết hồ sơ dự án sau khi đã ký hợp đồng.
Lời khai của một số bị cáo khẳng định, ký hợp đồng 33 là theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh, để tạm ứng tiền giúp PVC giải quyết khó khăn về vốn.
Đại diện VKS
Về việc sử dụng tiền trái mục đích tại PVC, đại diện VKS đã đưa ra nhiều bằng chứng để làm rõ, xác định vai trò của Trịnh Xuân Thanh.
Theo đại diện VKS, ngoài Trịnh Xuân Thanh không thừa nhận thì tất cả các bị cáo khác, từ Vũ Đức Thuận đều thừa nhận có hành vi làm trái.
"Quan điểm của chúng tôi là có đủ cơ sở truy tố bị cáo Trịnh Xuân Thanh về hành vi làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 165 Bộ Luật HS 1999", đại diện VKS nêu rõ.