Uống rượu đã trở thành một phần văn hóa của con người trong suốt ngàn năm qua.
Kiến thức thông thường về các loại đồ uống có cồn có thể giúp chúng ta nhận ra đâu là điểm dừng trong những cuộc nhậu, thế nhưng có lẽ chẳng mấy ai có thể tường tận được những phản ứng phức tạp mà rượu gây ra trong cơ thể của mỗi người.
Các chuyên gia sức khỏe đã đưa ra lượng rượu tiêu chuẩn để mọi người có thể bảo vệ sức khỏe của mình sau những cuộc vui cùng bạn bè.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, lượng rượu tiêu chuẩn rơi vào khoảng 40 ml đối với các loại rượu mạnh (có khoảng 80 loại rượu mạnh được nghiên cứu, trong đó có cả whiskey, gin, vodka, tequila và rum), 150 ml nếu uống các loại rượu nhẹ hơn (khoảng 12 độ) và khoảng 350 ml đối với các loại bia thông thường (chỉ khoảng 5 độ).
Với những loại rượu mạnh như whiskey, lượng rượu tiêu chuẩn chỉ là khoảng 40 ml (vài chén nhỏ).
Tuy nhiên, thay vì dựa trên lượng rượu được tiêu thụ thì nghiên cứu được nhắc đến dưới đây lại mô tả những tác động của loại đồ uống này thông qua lượng cồn trong máu, bởi một lượng cồn nhất định sẽ gây ra phản ứng khác nhau tùy thuộc vào các giới tính, cân nặng và nhiều yếu tố khác.
Phản ứng của cơ thể theo lượng cồn trong máu (tính theo % cồn/tổng thể tích máu)
Lượng cồn 0%: Cơ thể con người chỉ có thể xử lý một cốc rượu trong vòng một giờ.
Khi bạn uống ly rượu đầu tiên, cồn lập tức xâm nhập vào máu qua đường niêm mạc dạ dày hoặc chậm rãi “ngấm” qua dạ dày và ruột.
Lượng cồn 0,03%: Ở mức độ này, bạn sẽ cảm thấy trong người nóng lên bởi các mạch máu đang bắt đầu dãn dần ra.
Cồn cũng có thể khiến cảm xúc và tâm trạng của bạn trở nên mãnh liệt hơn bởi nó thúc đẩy quá trình tiết serotonin và endorphin trong não bộ.
Đây là những phản ứng xuất hiện sau khi bạn uống một lượng rượu vừa đủ, chúng không hề gây hại.
Nhiều nghiên cứu còn khẳng định các lợi ích đối với việc phòng chống bệnh tim mạch nhờ uống một lượng rượu hợp lý mỗi ngày.
Một lượng rượu vừa đủ không gây hại mà còn có thể có tác động tốt tới sức khỏe.
Lượng cồn 0,08%: Khi lượng cồn trong máu chạm mức 0,08, tương đương với hơn 3 cốc rượu một người đàn ông với cân nặng 80 kg uống trong 1 giờ, hoặc gần 3 cốc rượu một người phụ nữ với cân nặng tương tự uống trong một giờ, người đó sẽ bị cấm điều khiển các phương tiện giao thông.
Lượng cồn 0,12%: Khi lượng cồn trong máu ở mức 0,12, khả năng phối hợp và phán đoán dần dần suy giảm, khả năng kiểm soát lời nói cũng có thể bị kém đi, xuất hiện tình trạng nói lắp.
Người đó càng uống nhiều, lượng cồn mà gan phải phân giải cũng càng lớn. Quá trình này tạo ra chất độc toxin, gây nên áp lực lớn cho gan, từ đó tạo ra mỡ và các mô sẹo, làm suy giảm chức năng gan.
Lượng cồn 0,2%: Một người thực sự say rượu và mất khả năng điều khiển hành vi cùng các chức năng thần kinh của mình là khi lượng cồn trong máu người đó chạm mức 0,2.
Do rượu có thể làm rối loạn các dẫn truyền thần kinh trong não bộ, nhiều người còn mất đi khả năng hoạt động tình dục. Điều này còn dẫn đến tình trạng mất ngủ thường xuyên.
Lượng cồn là 0,3%: Ngay khi lượng cồn trong máu vượt quá 0,3, người ta sẽ mất đi ý thức và hệ thống thần kinh trung ương cũng trở nên trì trệ.
Lượng cồn cao hơn có khả năng gây ra ngộ độc rượu và thậm chí dẫn đến tử vong.
Sử dụng rượu quá mức thường dẫn tới ngộ độc, nôn mửa, thậm chí là tử vong.
Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng xử lý cồn của cơ thể
Giới tính: Khả năng xử lý cồn của phụ nữ thường khác với khả năng xử lý cồn của đàn ông, ngay cả khi họ có cùng kích thước cơ thể.
Điều khác biệt này có nguồn gốc từ sự khác nhau giữa lượng nước trong cơ thể mỗi người và những loại men gan nhất định chỉ xuất hiện trong cơ thể đàn ông.
Ngoài ra, hormone cũng là một yếu tố góp phần vào điều này.
Sinh lý: Quá trình xử lý cồn trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố về mặt sinh lý, bao gồm các nhân tố di truyền, thực phẩm, khả năng trao đổi chất, thói quen tập thể dục và việc sử dụng một số loại thuốc.
Tính cá thể: Một số người dù có lượng cồn cao trong máu nhưng vẫn giữ được trạng thái tỉnh táo dù cơ thể họ cũng xử lý rượu với cách thức giống với người bình thường.
Một số phản ứng còn có thể xuất hiện sớm hơn hoặc muộn với đối với từng người cụ thể.