Hệ thống phòng thủ xe tăng
Giáp phản ứng nổ được trang bị cho những chiếc Type 99 xuất hiện cho đến nay vẫn chỉ là loại giáp nổ thế hệ hai, gồm một "viên gạch” thuốc nổ đơn thuần đặt giữa hai lớp thép, là các hộp module.
Loại giáp này cho phép thay thế nhanh chóng các module bị tổn thất, đồng thời cũng dễ dàng nâng cấp hoặc cải tiến trong quá trình khai thác sử dụng, các module giáp bảo vệ phía trước tháp pháo được lắp với góc nghiêng nhằm chống đạn tandem bắn thẳng.
Sự tương đồng khá ấn tượng giữa T-72 và Type 99
Một trong những đặc điểm nổi bật của xe tăng Type 99 là hệ thống phòng thủ chủ động, cho phép các chuyên gia thiết kế tự hào khẳng định, xe Type 99 hơn hẳn nếu so với các xe tăng hiện đại của Mỹ và NATO (!?).
Nếu hệ thống bảo vệ chủ động Shtora chỉ có khả năng phát hiện chiếu xạ laser, dựng màn khói và sử dụng vũ khí trên tăng để tiêu diệt mục tiêu;
Hệ thống phòng thủ Arena trên xe tăng T-80, T-90 của Nga và hệ thống Trophy của Israel chỉ có khả năng nhận biết được các đầu đạn đang bay đến mục tiêu và phóng đạn tiêu diệt.
Theo thông báo của các kỹ sư thiết kế Type 99, xe ngoài hệ thống giáp phản ứng nổ còn có 2 hệ thống bảo vệ, hệ thống bảo vệ thứ nhất là hệ thống vũ khí laser chế áp và tấn công đối phương, hệ thống thứ 2 hoạt động tương tự như Trophy của Israel.
Hệ thống chế áp và tấn công bằng laser có hai chế độ hoạt động, chế độ hoạt động chủ động và chế độ hoạt động thụ động. Tầm hoạt động lên đến 4000 m.
Hệ thống thông thường được lắp đặt thiết bị trên kính ngắm của pháo tăng và di chuyển song song cùng với pháo tăng, điều khiển hệ thống duble cả trưởng xe và pháo thủ, công suất laser theo thông cáo báo chí lên đến 100 MJ.
Hệ thống cho phép đốt cháy võng mạc của xạ thủ chống tăng đối phương khi ngắm bắn mục tiêu qua kính quang học, đồng thời phá hủy hoàn toàn kính ngắm quang học của đối phương.
Hệ thống bao gồm có thiết bị phát hiện chiếu xạ laser (LWR - thiết bị hình nấm nằm trên tháp pháo phía sau của nắp cửa trưởng xe, thiết bị nguồn phát xung lượng tử ánh sáng (hộp hình vuông nằm phía sau nắp của pháo thủ).
Bộ thiết bị này sẽ phát hiện xe tăng bị chiếu xạ bởi nguồn laser của vũ khí chống tăng đối phương. Ngay tức khắc, tháp pháo sẽ tự động quay về hướng đối phương.
Hệ thống sẽ hoạt động theo phương án sau: sử dụng nguồn laser công suất thấp tìm kiếm vũ khí có thiết bị quang học (kính ngắm súng chống tăng).
Sau khi phát hiện ra kính ngắm, công suất nguồn phát laser thân xe đột ngột tăng công suất chiếu xạ, phá hủy hệ thống kính ngắm quang học của đối phương đồng thời làm cháy luôn võng mạc của xạ thủ súng chống tăng.
Theo lý thuyết, nhận biết ống kính quang học của vũ khí chống tăng dựa trên cơ sở nguồn sáng laser đột ngột tăng lên khi chùm tia laser đập vào ống kính quang học của súng.
Do đó, thiết bị này có thể loại hầu hết các loại vũ khí chống tăng có sử dụng kính ngắm quang học - bao gồm cả RPG-7.
Hệ thống có chế độ tìm kiếm tích cực, khi theo mệnh lệnh của pháo thủ và trưởng xe, hệ thống sẽ quét laser trên địa hình, khi phát hiện các kính quang học của đối phương, pháo tăng sẽ tự động khai hỏa tiêu diệt và chỉ thị mục tiêu đối phương.
Cũng theo ý kiến nhận xét của các nhà thiết kế Trung Quốc, công nghệ vũ khí laser trên tăng mới chỉ được Mỹ và Nga phát triển ở giai đoạn thử nghiệm, nhưng công nghệ của Trung Quốc đã hoàn thiện và có thể sản xuất dây chuyền.
Chính vì vậy, công nghệ vũ khí laser của Type 99 đang dẫn đầu nếu so sánh với các xe tăng nổi tiếng trên thế giới hiện nay.
Theo phát biểu của chủ nhiệm dự án thiết kế xe Type 99. Các tên lửa chống tăng hiện nay, chưa có loại nào có khả năng vượt qua hệ thống phòng thủ chủ động của xe. Hệ thống phòng thủ chủ động hoạt động hoàn toàn tự động dưới sự điều khiển của máy tính thân xe.
Hệ thống hoạt động tương tự như hệ thống Trophy của Israel, radar thân xe phát hiện mục tiêu, máy tính xác định khoảng cách, tốc độ đầu đạn đến thân xe, sau đó phóng đạn đánh chặn.
Đầu đạn bảo vệ sẽ nổ trong phạm vị 1 m so với đạn mục tiêu, trong bán kính này đảm bảo tiêu diệt đầu đạn chống tăng. Hệ thống bảo vệ thụ động hoàn toàn không cần đến sự điều khiển của con người, tìm kiếm, theo dõi mục tiêu, phóng đạn đánh chặn.
Theo những thông số và khả năng tác chiến đã nêu, trên thực tế hệ thống tác chiến tương đương chưa được sử dụng.
So sánh những xe tăng hiện đại thế giới.
M1 Abrams - Mỹ; T-90 - Nga; S90 (Type 90) - Nhật; K2 Black Panther - Hàn Quốc; Challenger 2 - Anh; Leopard 2 - Đức; Leclerc - Pháp; Merkava - Israel; Olifant Mk1B - Nam Phi; Type 99 - Trung Quốc.
Trong các xe này, M1 Abrams đã không còn sản xuất, T-90 Nga có được kinh nghiệm tác chiến của T-72 trên rất nhiều chiến trường, Merkava cũng đã nhiều lần thực chiến. Các xe tăng còn lại chỉ học hỏi kinh nghiệm của 4 dòng xe đã qua chiến trường.
Tổng công trình sư, kỹ sư trưởng Zhu Yu Sheng thông bảo: độ dầy của giáp thép tháp pháo Type 99 đạt 700 mm, thân xe đạt 500 - 600 mm, nếu tính cả lớp giáp phản ứng nổ được lắp lên tháp pháo và thân xe thì vỏ giáp có độ dày tương đương 1.000 - 1.200 mm.
Xe tăng Abrams M1A2 vỏ thép dày 600 - 700 mm, xe Leopard 2A6 là 580 mm, xe Type 90 của Nhật là 500 - 600 mm thép.
Phương án lắp đặt thiết giáp trên tháp pháo Type 99
Như vậy, nếu tính độ dày vỏ thép, thì xe Type 99 tương đương với xe Abrams của Mỹ và hơn hẳn xe tăng của Nhật Bản.
Như vậy, theo các thông số đã được thông báo từ các nhà thiết kế, xe Type 99 đứng vị trí thứ nhất trên thế giới về khả năng tự bảo vệ.
Khả năng tấn công tiêu diệt xe tăng Type 99 bằng các loại vũ khí đang được biên chế cho lực lượng lục quân trên thế giới rất khó khăn nhờ vào hai hệ thống bảo vệ rất hiện đại đã nêu.
Theo báo cáo của chủ nhiệm dự án, kỹ sư trưởng Zhu Yu Sheng, xe tăng Type 99 sử dụng động cơ diesel (loại lạnh) với tuốc bin nén khí có công suất 1.200 mã lực, cho phép Type 99 trong thời gian 12 giây đạt tốc độ 32km/h.
Những tồn đọng trong công nghệ sản xuất động cơ diesel là điểm yếu của xe tăng Type 99, nhưng ông Zhu cũng thông báo, những điểm còn tồn đọng đã có giải pháp phát triển, Zhu Yu Sheng cũng nói:
Nếu theo quan điểm của nhiều chuyên gia, thì động cơ diesel trên xe tăng M1A2 là 1.500 mã lực. Có nghĩa đó là ranh giới của hiện đại hóa động cơ diesel dành cho xe tăng. Đó là một nhận định sai lầm về khả năng cơ động của xe.
Đối với xe M1A2, công suất riêng là 23,8 mã lực cho một tấn, thì với xe tăng Type 99, công suất riêng của xe Type 99 lớn hơn một chút.
Do đó, dù công suất động cơ có khác nhau, nhưng khả năng cơ động lại tương đương, đồng thời, tiêu hao dầu cho xe tăng lại giảm hơn so với xe của Mỹ, đồng thời cũng giảm thiểu công tác hậu cần kỹ thuật phục vụ cho một đơn vị tác chiến cơ động.
Dù tính cơ động tương đương, nhưng xe tăng của Trung Quốc được cho là có dự trữ cơ động cao hơn xe của Mỹ.
Tổng công trình sư Zhu Yu Sheng thừa nhận, các nước phương Tây có nền tảng cơ bản về phát triển công nghiệp động cơ, công nghệ chế tạo động cơ diesel có đẳng cấp cao, đồng thời độ tin cậy và công suất của động cơ, bộ phận truyền động lực cũng rất cao.
Dù động lực và độ tin cậy của hệ thống truyền động lực thân xe có độ tin cậy thấp hơn xe của Mỹ và Đức, nhưng khi Trung Quốc đã hoàn thiện động cơ diesel 1.500 mã lực, thì khoảng cách khác biệt đó sẽ rút ngắn lại còn tương đương.
Zhu Yu Sheng cũng cho thấy xe Type 99 có độ cao tương đối thấp, thấp hơn 400 mm so với xe Leopard 2A6 và 200 mm so với xe M1A2 Abrams.
Giảm độ cao thân xe là một bài toán rất khó, yêu cầu phải chế tạo và thiết kế rất chi tiết, tính đến từng đơn vị cm3 không gian hở, và rất đồng bộ trong chế tạo các thiết bị.
Người Mỹ rất muốn hạ độ cao thân xe của Abrams nhưng không thể, do động cơ và hệ thống truyền động lực quá cao.
Thân xe Type 99 trong tương lai sẽ là thân xe cơ bản để có thể phát triển các loại xe khác như pháo tự hành, xe chỉ huy hoặc các loại xe chiến đấu khác. Như vậy, Type 99 đang chở thành loại xe cơ bản cho sự phát triển tăng, thiết giáp của Trung Quốc trong tương lai.
Mặc dù chiều cao xe Type 99 thấp hơn xe Abrams M1, nhưng hệ thống chuyển động của xe lại cao hơn so với xe tăng M1, cho phép xe Type 99 có khả năng cơ động cao trong địa hình rừng núi, đồng ruộng phức tạp.
Trên cơ sở những thông báo nói trên, khả năng cơ động của xe Type 99 tương đương với xe Leopard và M1A2 Abrams.
Ông Zhu Yu Chzhezhun nhận định, để đạt được đẳng cấp thiết kế hiện nay, nền công nghiệp chế tạo xe quân sự nói chung và xe tăng, thiết giáp nói riêng đã phải phấn đấu và lao động cần cù gần 3 thế hệ:
"Chúng tôi phải hướng đến những yêu cầu của chiến tranh trong tương lai, không thể đi theo những lối mòn tư duy công nghệ nước ngoài, vì điều đó có nghĩa là tụt hậu.”
Những bản ảnh chụp được trên xe tăng Type 99 cũng khẳng định, vũ khí laser trên tăng có góc tầm lớn hơn, do đó có khả năng tấn công cả trực thăng chiến đấu của đối phương, đồng thời cũng có thể là phương tiện thông tin liên lạc giữa các xe tăng và xe thiết giáp trên chiến trường.
Thông số kỹ chiến thuật của xe tăng chủ lực Type 99:
Khối lượng, tấn: 54; Kíp lái: 3.
Kích thước xe:
Chiều dài thân xe với nòng pháo phía trước: 10.920 mm; Chiều rộng: 3.372 mm; Chiều cao: 2.200 mm; Khoảng sáng gầm xe: 470 mm.
Thép vỏ xe là thép cán thành tấm và hàn, với lớp vỏ giáp tổng hợp bên ngoài, chống đạn xuyên dưới cỡ và đạn lõm.
Vũ khí trang bị: Pháo nòng trơn 125 mm; Súng máy: 1 × 12,7 mm "W-85", súng máy đồng trục 1 × 7,62 mm "Тype-86".
Cơ số đạn dự trữ: Đạn pháo tăng: 41 viên đạn trong đó có 22 viên đạn trong hệ thống nạp đạn tự động, 300 viên đạn phòng không 12,7 mm và 2.000 viên đạn 7,62 mm
Động cơ: Động cơ diesel MB871ka501, làm lạnh bằng chất lỏng với tăng áp khí nén sử dụng động cơ tuốc bin, công suất đã đạt được là 1.500 mã lực do có được công nghệ sản xuất động cơ của Đức (trên mẫu cơ bản vẫn sử dụng động cơ diesel 1.200 mã lực).
Tốc độ chạy trên đường nhựa 80 km/h, đường địa hình phức tạp 60 km/h; Lượng dầu dự trữ km: 450 (700 - với thùng dầu phụ).
Khả năng vượt chướng ngại vật: Vượt tường: 0,85 m; Vượt hào: 2,7 m.
Vượt chướng ngại ngập nước, m: 1,4 ( 5 với thiết bị đi ngầm tương tự T-72)
Phân tích hình ảnh cho thấy. Type 99 có cấu trúc bên ngoài liên quan đến xe tăng của Mỹ và Đức, bố trí giáp phản ứng nổ khá tương đồng với Đức nhưng sau bộ giáp phản ứng nổ có thiết kế khá giống với T-72.
Phần hệ thống chuyển động hoàn toàn tương đồng với T-72 dù thân xe được kéo dài hơn do lắp động cơ kiểu Đức.
Những tiến bộ về phương diện hệ thống giảm xóc treo, bánh chịu nặng và dẫn xích không có ngoài việc tăng giãn cách giữa các bánh chịu nặng.
Phần trên tháp pháo và phần cuối xe hoàn toàn không có hệ thống bảo vệ, có thể do chịu ảnh hưởng của động cơ có kích thước lớn hơn.
Những điều này cho thấy khó có thể nói Type 99 vượt trội hơn về mặt cấu trúc thiết kế do khá giống T-72. Phần laser, hệ thống phòng thủ chủ động không có thông tin và không có giải thích về việc khói mù, chớp lửa hồng ngoại và nhiều yếu tố khác có ảnh hưởng đến xung laser hay không.
Nếu đối phương sử dụng các loại đạn chống tăng mạnh hơn: RPG-29 trở lên, hoặc bị xạ kích tập trung bởi nhiều loại súng chống cùng một lúc, Type 99 có khả năng chịu đựng thế nào? Tất cả vẫn nằm trong vùng nghi ngờ.