Trong các cuộc không chiến trên bầu trời giữa phi công Việt Nam và phi công Mỹ, một tình huống trớ trêu đã xảy ra, không lấy gì làm vui vẻ với oai danh Không lực Mỹ. Đó là việc "lý thuyết gia chống MiG" của siêu cường Mỹ, bị bắn hạ ngay trong lần đầu tiên thực chiến đối mặt với loại máy bay "cổ lỗ" MiG-17.
"Chuyên gia" đó chính là phi công Norman C. Gaddis, khi đó mang quân hàm đại tá, còn người đã bắn hạ ông ta là Trung úy phi công Ngô Đức Mai của Không quân Nhân dân Việt Nam. Một người được tôn vinh là "chuyên gia chống MiG", mang quân hàm cao nhất của cấp tá, có 20 năm bay lượn với gần 4.200 giờ bay, thuộc lực lượng không quân nhà nghề đã thua một phi công đang là sĩ quan cấp thấp, mới có kinh nghiệm khoảng 300 giờ bay.
"Chuyên gia diệt MiG" Gaddis
Phi công Norman C. Gaddis sinh năm 1923 tại Dandridge, Tennessee, Mỹ. Ông đi nghĩa vụ quân sự vào năm 1942 theo chương trình huấn luyện thiếu sinh quân cho của Không quân vào năm 1944 tại Trung tâm thực địa không quân Williams của Quân đội Mỹ. Sau khi tốt nghiệp phi công, ông được biên chế hoạt động tại căn cứ Không quân Luke nơi ông hoạt động bay với máy bay P-40 và P-51.
Ngày 14/02/1949, ông được triệu tập hoạt động tại phi đội chiến đấu số 86 cho đến năm 1952. Tại đây ông hoạt động với các máy bay chiến đấu P-47 và F-86, sau đó ông chuyển đến hoạt động tại phi đội chiến đấu số 31 Turner AFB, Georgia. Trong thời gian này ông đã thực hiện các chuyến bay vượt Thái Bình Dương trên máy bay chiến đấu.
Tiếp đó ông lại chuyển đến hoạt động tại phi đội chiến đấu số 81 tại căn cứ Không quân RAF Bentwaters, Anh. Đến tháng 10/1955 ông lại được điều động đến phi đội chiến đấu số 450, tại đây ông hoạt động với các máy bay F-100C/D.
Với những thành tích của mình, năm 1960, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Cao đẳng Sĩ quan tham mưu Không quân cao cấp. Tại đây, Norman C. Gaddis làm công tác đào tạo phi công chiến đấu “làm thế nào để chống lại các máy bay MiG của Liên Xô”.
Tại các buổi hướng dẫn phi công, Gaddis thường xuyên chỉ trích các phi công Mỹ tại Việt Nam là “không biết cách khai thác tính năng của các máy bay hiện đại như F-4, F-105 trước các máy bay MiG dưới cơ”. Gaddis chỉ ra hàng trăm điểm yếu của MiG, đồng thời chỉ cho họ làm thế nào để chế ngự MiG.
Một chiếc F-4 mang đầy vũ khí.
Thực tế, F-4 là tiêm kích hiện đại, được đưa vào sử dụng từ năm 1963, có tốc độ tối đa Mach 2,23 (hơn gấp đôi tốc độ âm thanh) và được trang bị tên lửa đối không AM-7 hoặc AIM-9.
Trong khi đó, MiG-17 ra đời sớm hơn và cũng lạc hậu hơn, đưa vào sử dụng năm 1952, sớm hơn F-4 một thập kỷ. Nếu đọ thông số với F-4, gần như MiG-17 thua toàn diện. MiG-17 chỉ đạt tốc độ cận âm (1.144 km/h) và không hề được trang bị tên lửa. Vũ khí chính của MiG-17 là một pháo N37 37mm và 2 pháo NR-23 23mm, có tầm bắn thua xa với tên lửa đối không của Không quân Mỹ.
Thế nhưng, những bài học lý thuyết mà Gaddis trình bày trên giảng đường không làm giảm số lượng F-4, F-105 bị bắn hạ tại Việt Nam, số lượng phi công bị bắt ngày một tăng lên. Vì lẽ đó, đích thân Gaddis sang Việt Nam để nghiên cứu cách “điều trị MiG” trên thực tế.
Nhiệm vụ mà Lầu Năm Góc giao cho Gaddis là “xem xét chiến thuật của Không quân Mỹ, nghiên cứu về lưới lửa phòng không của Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu cách đánh của máy bay MiG của Việt Nam, tìm ra cách tiêu diệt hiệu quả các loại MiG rồi quay về báo cáo cho Washington”.
Bài thực hành dở tệ của ông hiệu trưởng
Tháng 11/1966, Gaddis đến đặt chân đến Việt Nam với tư cách tham mưu, không quên đính theo danh hiệu “chuyên gia diệt MiG” tại phi đội chiến đấu số 12 đóng quân tại Đà Nẵng. Sau nhiều tháng thu thập tài liệu, Gaddis đã có trong tay một tập báo cáo về cách “điều trị MiG”. Kế hoạch báo cáo trước Hội đồng Tham mưu Không quân Mỹ đã được lên kế hoạch. Ông ta cần thêm chuyến bay thực tế để hoàn tất mọi thứ.
Ngày 12/5/1967, Đại tá Gaddis cùng với hoa tiêu là Trung úy James M. Jefferson lái chiếc tiêm kích F-4C, chỉ huy tốp chiến đấu có vừa có F-4, F-105 bay từ Lào theo hướng Ba Vì tiến vào trong nhiệm vụ "tiêu diệt toàn bộ MiG -17 của Bắc Việt" do đích thân ông chủ Nhà Trắng giao phó.
Về phía ta, nhận được lệnh báo động chiến đấu, đúng 15h23, biên đội gồm 4 chiếc MiG-17 do các phi công Cao Thanh Tịnh, Lê Hải, Hoàng Văn Kỷ, Ngô Đức Mai, điều khiển xuất kích.
MiG-17 đối đầu F-4 trên bầu trời. Tranh minh họa.
Vừa lên, Ngô Đức Mai phát hiện 4 chiếc F-4 bay độ cao 1.000-1.500 m, cùng lúc ấy số Một - biên đội trưởng Cao Thanh Tịnh phát hiện thêm 4 chiếc F-105 từ phía sông Đà đi vào giữa Ba Vì và Tản Viên.
Ngay lập tức, số Một kéo lên bám 4 chiếc, bắn liền hai loạt đạn vào F-105 trong cự ly 600 m, độ cao 2.500 m. Sau loạt đạn, anh thấy thân máy bay địch bốc khói, chúng vội vã vứt bom để thoát thân.
Số Một vòng qua núi Viên Nam thì gặp số Ba Ngô Đức Mai và số Bốn Hoàng Văn Kỷ đang quần nhau với tốp F-4 của Mỹ phía đầu đông sân bay, số Một bám luôn một chiếc F-4 bắn hai loạt đạn ở cự ly 800 m, độ cao 1.500 m. Anh vừa bắn xong quay sang đã thấy hai chiếc F-4 bám theo mình phóng tên lửa. Số Một vội vã hô: “Tất cả cơ động!”. Toàn biên đội nghe lệnh tản hết.
Số Ba Ngô Đức Mai, khi phát hiện có F-4 thì lao vào rồi xả luôn hai loạt đạn ở cự ly gần 300 m. Không kịp tránh loạt đạn nhanh như chớp của anh, máy bay địch bốc cháy và rơi ngay tại chỗ.
Chiếc MiG-17F số hiệu 2011 đã quật ngã chiếc F-4C "Con Ma" của "chuyên gia diệt MiG" Norman C Gaddis được trưng bày tại Bảo tàng Phòng không Không quân Việt Nam.
Chiếc máy bay bị bắn rơi đó chính là chiếc mang số hiệu BN-63-7614 do Gaddis điều khiển. Khi bị bắn, Gaddis kịp thoát ra ngoài bằng dù, may mắn hơn hoa tiêu Jefferson bị kẹt trong máy bay. Gaddis đã hạ cánh an toàn xuống mặt đất nhưng bị quân dân ta "mời" ngay về “khách sạn Hanoi - Hilton” (nhà tù Hỏa Lò).
Sau này, không tin nổi mình bị bắn hạ, Gaddis đòi gặp bằng được phi công Ngô Đức Mai. Chính trong buổi gặp gỡ, lần đầu tiên ông Hiệu trưởng Cao đẳng Sĩ quan tham mưu Không quân cao cấp Mỹ được phi công trẻ 27 tuổi đời, 300 giờ bay của đối phương giảng về lối đánh bất ngờ ở cự ly gần, quen gọi là “nắm thắt lưng địch mà đánh”.
Đáng lý ra, đây sẽ là những lời giảng hay trong giáo trình tiếp theo của Hiệu trưởng Gaddis, đáng tiếc, chương trình “điều trị MiG” đã chấm dứt khi ông ta phải "thụ án" tại nhà tù Hỏa Lò cho đến năm 1973.