Dưới đây là những phương tiện chủ chốt trong lực lượng tăng - thiết giáp của Mỹ trên chiến trường miền Nam:
M48A3 chiến lợi phẩm của QĐNDVN trong chiến dịch Quảng Trị 1972.
Xe tăng chủ lực M48 Patton do Mỹ thiết kế từ 1951 và bắt đầu sản xuất hàng loạt từ năm 1952. Phiên bản M48A3 có khối lượng chiến đấu 49,6 tấn, vỏ thép 25-120 mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M41 cỡ 90 mm với cơ số đạn 62 viên, một đại liên M2 cỡ 12,7 mm và một đại liên M73 cỡ 7,62 mm. M48A3 là xe tăng chủ lực của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam từ năm 1965.
Năm 1971, Mỹ bắt đầu viện trợ loại xe này để trang bị cho 3 thiết đoàn chiến xa quân đội VNCH với số lượng trên 160 chiếc ở thời điểm đầu 1975. Trong chiến đấu, nhiều chiếc M48A3 của VNCH đã bị QĐNDVN tịch thu và đưa vào sử dụng, nhất là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1975.
Sau ngày đất nước thống nhất, một số ít M48A3 còn lại tiếp tục được huy động tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam (1977-1979). Tuy nhiên, vì nhiều lý do liên quan đến tính năng và hậu cần, loại xe này chỉ được QĐNDVN sử dụng một cách khá hạn chế.
M41 chiến lợi phẩm tiến vào Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Xe tăng hạng nhẹ M41 Walker Bulldog do Mỹ thiết kế năm 1947 và bắt đầu sản xuất từ 1951 nhằm thay thế vai trò của xe tăng hạng nhẹ M24. M41 có khối lượng chiến đấu 23,5 tấn, vỏ thép 9-38 mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M32 cỡ 76 mm với cơ số đạn 57 viên, một đại liên M2 cỡ 12,7 mm và một đại liên M1919 cỡ 7,62 mm.
Từ đầu năm 1965, với số lượng lớn được Mỹ viện trợ, M41 trở thành xe tăng chủ lực của quân đội VNCH trong nhiều năm, với con số trên 220 xe ở thời điểm đầu 1975. Bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam thu được chiếc M41 đầu tiên trong trận Gò Đậu (Bình Dương) ngày 23/3/1966.
Ngày 1/4/1972, lần đầu tiên Đoàn thiết giáp 26 sử dụng xe tăng M41 tham gia chiến đấu trong trận Xa Mát (Tây Ninh), mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ. M41 chiến lợi phẩm tiếp tục được QĐNDVN thu và tận dụng lại với số lượng lớn, đặc biệt là trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy 1975. Sau ngày thống nhất, loại xe này còn tham gia thêm nhiều trận đánh tiêu diệt quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1977-1979).
M24 thu được trong trận Điện Biên Phủ tham gia diễn tập cùng bộ binh.
Xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1944, trang bị cho các đơn vị thiết giáp Mỹ tham chiến trong giai đoạn cuối Thế chiến 2 và trong chiến tranh Triều Tiên. M24 có khối lượng chiến đấu 18,4 tấn, vỏ thép 9-38 mm, kíp chiến đấu 5 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 75 mm với cơ số đạn 48 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 2 đại liên M1919 cỡ 7,62 mm.
Loại xe này được Mỹ viện trợ cho khá nhiều các quốc gia đồng minh, được sử dụng bởi quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Đông Dương giai đoạn 1945-1954 cũng như quân đội Hoàng gia Lào, Lon Nol (Campuchia) và VNCH trong giai đoạn 1954-1975. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5/1954, QĐNDVN thu được 2 xe M24 còn hoạt động được và dùng vào nhiệm vụ huấn luyện hiệp đồng binh chủng.
Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II bộ đội Việt Nam thu được thêm 1 xe M24 khác của quân Lon Nol trong tình trạng pháo không có kim hỏa, biên chế cho Đoàn thiết giáp 26. Ngày 1/4/1972, trong trận Xa Mát (Tây Ninh) mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, chiếc xe tăng này đã tham gia chi viện bộ binh đánh chiếm căn cứ bằng hỏa lực đại liên 12,7 mm.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chiếc M24 bị hỏng nặng không thể khôi phục đã được phá hủy tại trận địa. Đây cũng là trường hợp duy nhất ghi nhận M24 trực tiếp chiến đấu trong đội hình QĐNDVN.
M42 chiến lợi phẩm trong chiến dịch Quảng Trị 1972.
Cao xạ tự hành M42 Duster được Mỹ thiết kế trên cơ sở khung gầm xe tăng hạng nhẹ M41 và đi vào sản xuất từ năm 1952. M42 có khối lượng chiến đấu 24,8 tấn, vỏ thép 9-25 mm, kíp chiến đấu 4-6 người, trang bị 1 bệ pháo Bofors M2A1 2 nòng cỡ 40 mm với cơ số đạn 480 viên và 1 đại liên M1919 cỡ 7,62 mm.
Trong thời kỳ 1965-1972, Mỹ đưa đã đưa M42 sang tham chiến Việt Nam với vai trò yểm trợ hỏa lực, chống bộ binh. Nhiều xe sau đó được chuyển giao cho quân đội VNCH, biên chế trong 4 tiểu đoàn “pháo binh phòng không” chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ các căn cứ và sân bay. Sau khi kết thúc kháng chiến chống Mỹ, một số ít xe có khả năng hoạt động được trang bị cho QĐNDVN.
Tháng 3/1985, trong chiến dịch tiến công căn cứ K3 của Khmer Đỏ ở biên giới Campuchia - Thái Lan, Trung đoàn tăng thiết giáp 574 đã sử dụng 5 xe M42 tham gia chi viện hỏa lực, hỗ trợ đắc lực cho bộ binh đột phá giành thắng lợi.
M113 chiến lợi phẩm trong chiến tranh biên giới Tây Nam.
Trong số các vũ khí hệ 2 từng được QĐNDVN sử dụng thì M113 có thể coi là một trong những trường hợp thành công nhất. Loại xe này được Mỹ nghiên cứu thiết kế từ cuối thập niên 1950 và đi vào chế tạo từ 1960, trở thành xe chở quân chính của Mỹ và các quốc gia đồng minh trong một thời gian dài.
M113 có khối lượng chiến đấu 12,3 tấn, vỏ nhôm dày 12-38mm, kíp chiến đấu 2 người, được trang bị vũ khí chính là 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và có thể chở theo 1 tiểu đội bộ binh. M113 lần đầu xuất hiện trên chiến trường Việt Nam tháng 3/1962 và sau này đóng vai trò là xe chiến đấu bộ binh chủ lực của quân Mỹ, đồng minh cũng như VNCH trong toàn bộ giai đoạn chiến tranh.
Tính đến đầu năm 1975, trong biên chế quân đội VNCH vẫn còn khoảng trên 1.500 chiếc M113. QĐNDVN thu và sử dụng lại số lượng lớn M113 qua các trận chiến đấu, đặc biệt là trong các chiến dịch tiến công năm 1972 và 1975.
Sau ngày chiến thắng, hàng trăm xe chiến lợi phẩm được đưa vào biên chế bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam và đã xuất trận với quy mô lớn rất hiệu quả trong chiến tranh biên giới Tây Nam 1977-1979, phần nào lấn át cả vai trò của các loại xe bọc thép khác do Liên Xô và Trung Quốc chế tạo.
Bên cạnh phiên bản M113 thông thường, QĐNDVN còn sử dụng các biến thể chiến đấu và bảo đảm khác như M113 gắn ĐKZ-106 mm M40 hoặc ĐKZ-75 mm K56 (do Việt Nam cải tiến), M113 ACAV (có tấm chắn cho xạ thủ đại liên và thêm 2 đại liên M1919 cỡ 7,62mm), M132 (gắn súng phun lửa và đại liên M73 cỡ 7,62mm), M106 (mang súng cối 106,7mm M30), M125 (mang súng cối 81mm M29), M577 (xe chỉ huy), M548 (xe vận tải xích và cứu kéo)…
V-100 chiến lợi phẩm của lực lượng vũ trang Quân khu 9.
Xe bọc thép V-100 hay M706 Commando được Mỹ thiết kế và sản xuất từ năm 1964 để đảm nhiệm các vai trò chở quân, trinh sát, tuần tiễu, chống tăng hoặc mang súng cối… Xe có khối lượng chiến đấu 7,4 tấn, vỏ thép dày nhất khoảng 6 mm, kíp chiến đấu 3 người và được trang bị 2 đại liên cỡ 7,62 mm.
Năm 1967, quân đội Mỹ và VNCH bắt đầu triển khai V-100 trên chiến trường Việt Nam, trong đó một số xe do VNCH sử dụng được cải tiến gắn thêm 1 đại liên M2 cỡ 12,7 mm hoặc M1919 cỡ 7,62mm.
Tính đến đầu năm 1975, quân đội VNCH có khoảng trên 100 xe bọc thép V-100, chủ yếu trang bị cho các đơn vị bảo vệ sở chỉ huy, các đơn vị thiết giáp của địa phương quân và lực lượng cảnh sát dã chiến. Sau ngày đất nước thống nhất, V-100 chiến lợi phẩm được biên chế cho nhiều đơn vị trinh sát và cảnh vệ thuộc Quân khu 7 hoặc 9 và đã tham gia một số trận chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam trong giai đoạn 1977-1979.
Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt đội xe M8 tháng 1/1956.
Xe bọc thép M8 Greyhound được Mỹ thiết kế và sản xuất từ 1943-1945, được sử dụng rộng rãi với vai trò trinh sát trong các đơn vị thiết giáp Mỹ và Đồng minh tham gia Thế chiến 2. Xe có khối lượng chiến đấu 8,6 tấn, vỏ thép 3-19mm, kíp chiến đấu 4 người. Hỏa lực của xe gồm pháo chính M6 cỡ 37mm với cơ số đạn 80 viên, 1 đại liên M2 cỡ 12,7mm và 1 đại liên M1919 cỡ 7,62 mm.
M8 Greyhound do Mỹ cung cấp đã tham chiến khá nhiều trên chiến trường Đông Dương trong biên chế quân đội viễn chinh Pháp giai đoạn 1945-1954 và sau đó tiếp tục được quân đội Hoàng gia Lào, Lon Nol Campuchia và VNCH sử dụng ở thời kỳ 1954-1975.
QĐNDVN thu được một số xe M8 trong kháng chiến chống Pháp và sau này trong kháng chiến chống Mỹ còn thu thêm 1 xe nữa từ quân Lon Nol trong cuộc hành quân Chenla II cuối năm 1971. Tuy vậy số xe này chủ yếu được dùng vào nhiệm vụ huấn luyện, chưa có ghi nhận trường hợp nào bộ đội tăng thiết giáp đưa nó vào trực tiếp chiến đấu.
Xe tăng hạng nhẹ AMX-13 kiểu 1951 (AMX-13-75) do Pháp chế tạo (ảnh minh họa).
Đây có thể xem là trường hợp đặc biệt nhất trong lịch sử trang bị của bộ đội tăng thiết giáp Việt Nam. Đây là loại xe tăng hạng nhẹ do Pháp thiết kế và sản xuất hàng loạt từ năm 1952. AMX-13 có khối lượng chiến đấu 14,5 tấn, vỏ thép 10-40mm với kíp chiến đấu 3 người. Hỏa lực của biến thể kiểu 1951 (hay AMX-13-75) gồm pháo chính SA-49 cỡ 75mm với cơ số đạn 32 viên và 1 đại liên đồng trục cỡ 7,5mm hoặc 7,62 mm.
Năm 1964, Campuchia được Pháp viện trợ 40 xe tăng AMX-13-75. Cuối năm 1971, sau khi đánh bại cuộc hành quân Chenla II của quân Lon Nol (Campuchia), QĐNDVN thu được 1 xe AMX-13-75 trong tình trạng pháo không có khóa nòng. Ngày 1/4/1972, Đoàn thiết giáp 26 đã sử dụng chiếc AMX-13-75 này (được Việt Nam gọi là M51) tham gia tiến công căn cứ Xa Mát (Tây Ninh).
Dù pháo chính không bắn được, kíp lái đã dùng đại liên bắn yểm trợ bộ binh kết hợp với cho động cơ gầm rú uy hiếp tinh thần địch. Sau khi trận đánh kết thúc thắng lợi, xe bị hỏng nặng không thể khôi phục nên nên phải cho phá hủy tại trận địa. Đến đây, chiếc AMX-13-75 duy nhất của QĐNDVN đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình.