Chủ đề về phát triển máy bay kiểm soát và cảnh báo sớm trên không (AWACS) được làm nóng trở lại ở Nga khi mới đây Mỹ dự kiến huy động hàng loạt máy bay loại này như Boeing E-3 Sentry tham gia chiến dịch quân sự chống Syria.
Những chiếc máy bay AWACS của Mỹ đã từng chứng tỏ hiệu quả trong các cuộc chiến Nam Tư, Iraq, Afghanistan và nhiều điểm nóng khác trên thế giới.
Việc sở hữu quá ít máy bay AWACS so với Mỹ khiến Nga có thể gặp bất lợi trong những tình huống cụ thể.
Ở thời điểm hiện tại, Nga khó có thể chạy đua với Mỹ về số lượng nên chiến lược hiệu quả nhất là tập trung về chất lượng với việc sản xuất mẫu máy bay AWACS mới hiện đại hơn.
Nga hiện có tất cả 22 (có số liệu cho rằng chỉ còn 16 chiếc) máy bay kiểm soát và cảnh báo sớm trên không A-50 vốn được chế tạo từ thời Liên Xô cũ.
Mới đây, Không quân Nga đã nhận thêm 2 chiếc phiên bản nâng cấp A-50U và dự kiến chiếc thứ 3 sẽ được bàn giao vào cuối năm 2013. Tập đoàn Vega cho biết đang chờ ký hợp đồng cung cấp chiếc thứ 4 cho quân đội Nga và chiếc này đang trong giai đoạn lắp ráp.
Theo Phó Tổng công trình sư của tập đoàn Vega, ông Vartan Shakhgedanov, sự khác biệt cơ bản giữa A-50U và những chiếc A-50 thông thường là phiên bản nâng cấp được thay thế các thiết bị analog bằng các thiết bị kỹ thuật số.
Điều này sẽ giúp máy bay tăng cường khả năng phát hiện, bám mục tiêu và dẫn bắn cho các phương tiện vũ khí khác nhau.
Các chuyên gia Nga cho biết việc sử dụng máy bay AWACS sẽ giúp Nga tăng cường (nói cách khác là lấp khoảng trống) trường radar của nước này bởi trường radar của Nga hiện đang được thiết lập theo dải. Những năm qua, Nga cũng đã tăng cường các hoạt động huấn luyện máy bay AWACS để giải quyết các nhiệm vụ khác nhau.
Từ năm 2011 đến nay, các máy bay AWACS của Nga đã thực hiện 150 chuyến bay huấn luyện và các nhiệm vụ đặc biệt, dẫn bắn hơn 1.000 lần cho không quân tiêm kích và cường kích tấn công các mục tiêu mặt đất, mặt nước và trên không.
Những chiếc A-50 của nga dù được chế tạo từ cuối những năm 70 song hiện vẫn tỏ ra rất hữu dụng.
Theo kế hoạch, Nga sẽ từng bước hiện đại hóa phi đội AWACS với những chiếc A-50U được trang bị các tổ hợp kỹ thuật vô tuyến và hệ thống kỹ thuật số hiện đại hơn. Các chuyên gia Nga còn ví von, với cách làm này những chiếc A-50U của Nga có được “tuổi thanh xuân thứ hai”.
Nhờ ứng dụng công nghệ mới và thay thế các thiết bị chuyên dụng, máy bay mới sẽ nhẹ hơn và tăng cường đáng kể tầm hoạt động cũng như thời gian trực chiến trên không.
Tại vị trí điều khiển tự động hóa của các sĩ quan trên máy bay được trang bị các màn hình tinh thể lỏng giúp thể hiện rõ ràng tình hình trên không trong khu vực tác chiến. Những màn hình này cũng cho phép phản ứng một cách linh hoạt trước mọi thay đổi và thậm chí cung cấp các số liệu tham khảo cần thiết để thao tác hiệu quả.
Việc nâng cấp đã thay đổi đáng kể các tính năng kỹ chiến thuật của máy bay như tăng tầm phát hiện các mục tiêu trên không, trên biển; tăng số lượng đối tượng có thể bám cùng lúc; nâng cao khả năng và tốc độ xử lý thông tin cũng như khả năng dẫn bắn tự động cho tiêm kích tấn công các mục tiêu trên không ở các tốc độ và độ cao khác nhau trong điều kiện có nhiễu.
Các máy bay A-50 đã và đang được sản xuất tại tổ hợp nghiên cứu kỹ thuật hàng không Tagn (TANTK) mang tên Beriev. A-50 được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải Il-76MD với tầm bay 7.500 km và tốc độ tối đa 800 km/h. A-50 có thể phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 400 km; phân biệt các loại mục tiêu trên không, trên mặt đất và theo dõi đồng thời tối đa 300 đối tượng.
Hiện tại, TANTK đang hợp tác với tập đoàn Vega sản xuất phiên bản A-50U. Một trong những điểm đáng chú ý của phiên bản mới là được trang bị các tổ hợp radar hiện đại như Smel-M và Shmel-2, giúp tăng tầm bắt và bám mục tiêu.
A-50U có thể phát hiện các máy bay ném bom từ khoảng cách 650 km, tiêm kích từ khoảng cách 300 km, các mục tiêu mặt đất như đoàn xe tăng từ khoảng cách 250 km.
TANTK và tập đoàn Vega cũng đang nghiên cứu chế tạo máy bay AWACS hiện đại mang tên A-100 Premier trên nền tảng Il-476 (Il-76MD-90A) với động cơ PS-90A-76. Các chỉ số kỹ chiến thuật của A-100 sẽ được tăng cường gấp đôi so với A-50U khi được trang bị hệ thống dẫn đường kĩ thuật số, hệ thống điều khiển kỹ thuật số, anten mảng pha chủ động.
Tháng 8/2011, Tư lệnh Không quân nga Alexandr Zelin cho biết, chiếc A-100 đầu tiên sẽ được hoàn thành trước năm 2016. Tuy nhiên, các chuyên gia nhận định thời hạn này có thể bị chậm một năm.
Về nguyên tắc, A-100 là mẫu máy bay AWACS mới của Nga có thể vừa thực hiện các nhiệm vụ cấp chiến thuật-chiến dịch, vừa làm các nhiệm vụ chiến lược. Khi chế tạo mẫu máy bay này, Nga đã tính tới việc tăng cường hiệu quả tác chiến cả trong thời bình và trong thời chiến, trong giai đoạn bị đe dọa và trong thời gian tác chiến.
Máy bay đã được ứng dụng các giải pháp liên quan tới kỹ thuật tính toán hiện đại, các thành tựu mới nhất trong lĩnh vực lý thuyết điều khiển tối ưu, nhận biết, phân loại và xử lý tín hiệu về không gian-thời gian.
А-100 chuyên dụng để phát hiện, nhận biết, phân loại và xác định tọa độ cũng như bám các mục tiêu mặt đất, mặt nước và trên không, các loại phương tiện tấn công bằng tên lửa phi chiến lược của đối phương; chuyển các thông tin tình báo về các trạm chỉ huy các cấp, trong đó có các điểm điều khiển hỏa lực trên chiến hạm, các tổ hợp tên lửa phòng không mặt đất; điều khiển các loại máy bay tiêm kích, cường kích, ném bom, không quân đặc biệt và cả máy bay không người lái.
Trong khi Nga hiện chỉ sở hữu từ 18-24 chiếc AWACS thì Mỹ đang có khoảng 100 chiếc loại này. Hai loại AWACS chính của Mỹ là Boeing E-3A/B Sentry (32 chiếc) và E-2C Hawkeye (55 chiếc) chưa kể các phiên bản cũ của hai loại này.
E-3 Sentry là máy bay AWACS của Không quân Mỹ, được nghiên cứu phát triển trong khoảng thời gian tương tự như A-50 của Nga (bắt đầu chuyển giao từ năm 1977). Trong khi đó, E-2C Hawkeye do hãng Northrop Grumman chế tạo cho Hải quân Mỹ từ cuối 1950, đầu 1960 và bắt đầu chuyển giao vào năm 1964.
E-2C Hawkeye có tính năng kỹ chiến thuật kém hơn A-50 của Nga khi có tốc độ tối đa 650 km và tầm bay chỉ đạt 2.700 km.
Mỹ hiện đã nâng cấp E-2 Hawkeye thành phiển bản mới nhất là E-2D với khả năng tiếp dầu trên không nhằm tăng cường thời gian bay (từ 4,5-5 tiếng hiện nay), được trang bị radar mới tăng tầm phát hiện mục tiêu (từ 640 km hiện nay) và khả năng phối hợp tác chiến với các loại vũ khí khác.
E-3 Sentry có tính năng tốt hơn và được đánh giá tương đương A-50 của Nga. E-3 Sentry có tốc độ tối đa 855 km/h, tầm bay 7.400 km và có khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách đến 650 km.