Trước M.39, M.35 Libellula (tên một loại chuồn chuồn) là chiếc máy bay thử nghiệm với 2 cặp cánh song song được hoàn thành và bay thử trong 6 tuần, nhưng nó tỏ ra không ổn định.
Sau khi kiểm tra đường hầm gió cho thấy các vấn đề có thể sửa chữa được nên George Miles đã “thai nghén” một dự án máy bay ném bom hạng nặng mang tên M.39, được hỗ trợ bởi 3 động cơ phản lực.
Máy bay thử nghiệm M.35 Libellula
M.39 có thiết kế gần giống M.35, cũng có 2 cặp cánh song song và được phát triển trong Chiến tranh thế giới thứ 2 bởi Miles Aircraft, cung cấp cho phi công trường nhìn tốt nhất để có thể hạ cánh trên tàu sân bay.
M.39 đã được đề xuất bởi Miles để đáp ứng đặc điểm của Bản kỹ thuật B.11/41, vốn được Bộ Hàng không xây dựng cho máy bay ném bom nhanh P.1005 của Hawker.
Đó là chiếc máy bay Napier Sabre 2 động cơ, đạt tốc độ 650 km/h ở độ cao 7,6 km, mang theo 900 kg bom và có tầm hoạt động hơn 2.500 km.
Tuy nhiên bản đề xuất P.1005 này đã bị hủy bỏ do có vài sự chậm trễ trước khi Miles đưa ra thiết kế M.39 của mình trong tháng 7/1943.
Tháng 11/1943, một nguyên mẫu kích thước đầy đủ (tên định danh là RR910) cho máy bay Napier Sabre được đưa ra, nhưng không đi vào chế tạo.
M.39B Libellula là một máy bay thử nghiệm 2 động cơ với 2 cặp cánh song song (tandem wing)
Theo như dự kiến, M.39 có phi hành đoàn 3 người trong một cabin điều áp. Ngoài khoang chứa bom ở thân giữa, M.39 còn mang theo 2 pháo 20 mm trong gốc cánh phía trước.
Để chứng minh khái niệm, Miles thiết kế và chế tạo một phiên bản tỷ lệ 5:8 có tên là M.39B Libellula, bay lần đầu vào ngày 22/7/1943, nó đã cho thấy không có "tình huống không mong muốn" nào.
M.39B còn trùng hợp với sự quan tâm của chính quyền với các thiết kế không chính thống cho máy bay lớn. Cặp cánh phía sau cao hơn so với cặp cánh trước để chừa không gian giúp cho cánh quạt không bị chạm mặt đất.
Máy bay có cánh tà nằm phía trong và cánh liệng nằm phía ngoài ở cặp cánh sau; cánh trước có một cánh tà phụ, có thể thay đổi diện tích cánh mà không ảnh hưởng tới hệ số nâng.
Máy bay thử nghiệm M.39B Libellula
Bộ Sản xuất Máy bay của Anh đã đồng ý ký hợp đồng phát triển và mua M.39B. Miles tiếp tục thử nghiệm, tạo ra dữ liệu chuyến bay và gửi thiết kế M.39 cải thiện vào đầu năm 1944.
Trong khi đó, chiếc M.39B duy nhất được Royal Aircraft Establishment thông qua tại Farnborough vào năm 1944, nơi mà nó mang định danh SR392.
Chiếc máy bay này gặp phải 2 tai nạn và đã được sửa chữa, nhưng sau đó đã bị tháo dỡ khi dự án máy bay ném bom B.39B thất bại.
Thông số kỹ thuật cơ bản của M.39 Libellula
Phi hành đoàn: 1 người.
Chiều dài: 6,76 m.
Sải cánh: 11,43 m (cặp cánh sau); 8 m (cặp cánh trước).
Chiều cao: 2,82 m.
Diện tích cánh: 17,42 m2 (cặp cánh sau); 5,73 m2 (cặp cánh trước).
Trọng lượng rỗng: 1.091 kg.
Động cơ: 2 động cơ piston de Havilland Gipsy Major IC công suất 140 mã lực mỗi chiếc.
Tốc độ tối đa: 164 km/h.
Tốc độ leo cao: 5,6 m/s.