Vũ khí đầy mình
Chiếc đầu tiên được đưa vào biên chế trang bị vào ngày 13.10.1976. Chiếc cuối cùng trong lớp tàu đa nhiệm này USS “Cheyennе” được đưa vào biên chế — 13.09.1996 . Tàu được đóng bởi các tập đoàn đóng tàu Newport News Shipbuilding và General Dynamics Electric Boat Division.
Chín chiếc tàu ngầm lớp Los Angeles đã tham gia tác chiến trong chiến tranh tại vùng nước vịnh Persic năm 1991, trong cuộc chiến này các tên lửa Tomahawk đã được phóng từ hai tàu ngầm.
Tàu ngầm lớp Los Angeles là tàu ngầm đa nhiệm, trong đó nhiệm vụ trọng tâm của tàu ngầm là chiến đấu chống ngầm, tiến hành các hoạt động trinh sát, đổ bộ lực lượng biệt kích đa nhiệm, tấn công các mục tiêu trên mặt nước và trên bờ biển, rải thủy lôi và tiến hành các nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn trên biển.
Tên dự án: 688, 688i (improved 668) thuộc lớp tàu theo NATO: Los Angeles. Tốc độ trên mặt nước: Đến 17 knots. Tốc độ lặn ngầm : 30 knots, 35 knots cực đại trong thời gian ngắn. Độ sâu lặn ngầm : 250—280 m. Độ sâu giới hạn: 450 m. Thủy thủ đoàn: 14 sĩ quan và 127 thủy thủ.
Cấu trúc thiết kế: Tàu được thiết kế theo phương pháp 1 vỏ, bao gồm một thân ống hình trụ (dài hơn 50% vỏ tàu) phần mũi tàu và đuôi tàu được thiết kế dang vỏ cầu parabol, được lắp các bồn nước dằn tàu, số lượng bồn nước dằn tàu có thể thay thế được là 4 bồn. Lượng giãn nước trên mặt nước : 6082-6330 tấn. Lượng giãn nước khi lặn: 6927-7177 tấn. Chiều dài thân tàu: 109,7 m. Chiều rộng thân tàu : 10,1 m. Mức ngấn nước khi nổi: 9,4 m
Vũ khí trang bị: Là tàu ngầm đa nhiệm, thực hiện những sứ mệnh can thiệp vũ trang sau chiến tranh lạnh, tàu được trang bị chủ yếu là vũ khí thông thường có khả năng tấn công ngầm, mặt nước và bờ biển, do đó là những tàu đầu tiên được trang bị hệ thống điều khiển tên lửa tấn công mục tiêu mặt nước và mặt đất ASBU được định danh thời điểm đó là AN/BSY-1.
Tên lửa hành trình là vũ khí chủ yếu của tàu ngầm Los Angeles. Những tàu ngầm lớp Los Angeles được đóng từ năm 1982 được lắp đặt 12 ống phóng tên lửa Tomahawk thẳng đứng, đồng thời lắp đặt hệ thống điều hành tác chiến CCS Mark 2.
Hơn 40 năm vẫn chạy tốt
Tên lửa Tomahawk được trang bị cho tàu ngầm nhằm mục đích tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất và mặt nước. Đến năm 1994, ¾ số tàu ngầm Los Angeles được trang bị Tomahawk. Các tàu ngầm vẫn duy trì khả năng phóng tên lửa qua ống phóng ngư lôi. Các tên lửa Tomahawk tấn công mục tiêu trên bờ có tầm bắn lên đến 2.500 km (phiên bản mang đầu đạn hạt nhân), 1600 km mang đầu đạn nổ thường. Hê thống TAINS (Tercom Aided Inertial Navigation System — Phiên bản bán tự động dẫn đường quán tính của hệ thống TERCOM) điều khiển tên lửa bay đến mục tiêu với vận tốc cận âm và độ cao so với mặt đất từ 20 đến 100 m. Tên lửa chống tàu Tomahawk được lắp đặt hệ thống điều khiển dẫn đường quán tính, được trang bị đầu dẫn radar chủ động, tầm bắn đến 450 km.
Tàu ngầm lớp Los Angeles được trang bị tên lửa chống tàu "Harpoon". Các tên lửa chống tàu Harpoon nâng cấp dành cho tàu ngầm được lắp đặt đầu đạn tự dẫn radar chủ động và khối nổ mạnh 225 kg. Tầm bắn của tên lửa chống tàu Harpoon với tốc độ bay của tên lửa cận âm là 70 km.
Bắt đầu từ tàu ngầm nguyên tử lớp Los Angeles SSN-751 San-Juan, các tàu đều được trang bị 12 ống phóng tên lửa thẳng đứng, được sử dụng để phóng tên lửa Harpoon và Tomahawk (chỉ dành cho cấp tàu 688i)
Tàu được lắp đặt 4 ống phòng tên lửa 533-mm được sử dụng để phóng ngư lôi Mk.46, Mk.48, và tên lửa chống tàu Harpoon (6-8 tên lửa).
Trang thiết bị tác chiến điện tử: Tàu ngầm được trang bị hệ thống tìm kiếm BRD-7, Hệ thống phát hiện, định danh và phân loại mục tiêu trên sóng radio dưới nước WLR-1H và WLR-8(v)2, hệ thống phát hiện và định danh, chủng loại mục tiêu đài phát radar WLR-10. Hiện nay hải quân Mỹ đang tiến hành thử nghiệm hệ thống phát hiện đài sonar và tác chiến điện tử, gây nhiễu, tín hiệu giả AN/WLY-1 để thay thế cho thiết bị WLR-9A/12. Tàu ngầm được trang bị ống phóng ngư lôi mồi «Mark 2».
Tàu ngầm lớp "Los Angeles" được trang bị một số lượng lớn các thiết bị dò tìm sonar và các cảm biến âm thụ động để trinh sát phát hiện và tìm mục tiêu bằng thủy âm thanh: ăng-ten kéo TV-23/29 và an ten thu sonar thủy âm bên sườn tàu tần số thấp thụ động BQG 5D / E, sonar cao tần siêu âm hoạt động hoạt động trong tầm ngắn Ametek BQS 15 được sử dụng để phát hiện các tảng băng trôi ngầm, sonar siêu âm cao tần MIDAS (Mine and Ice Detection Avoidance System - hệ thống tìm kiếm, phát hiện và tránh các tảng băng đá và thủy lôi), sonar chế độ chủ động tìm kiếm tàu ngầm Raytheon SADS-TG.
Tàu ngầm lớp "Los Angeles" được trang bị lò phản ứng nước nhẹ áp lực GE PWR S6G, 26 MW, được phát triển bởi tập đoàn General Electric. Tàu có một động cơ phụ trợ công suất 242 kW. Thời gian hoạt động của các thanh nhiên liệu trong lò phản ứng là 13 năm - vượt xa thời gian hoạt động của các thanh nhiên liệu trong các lò phản ứng loại khác khoảng 6-7 năm.
Bắt đầu từ tàu ngầm SSN-768, Los Angeles được lắp chân vịt có độ ồn thấp hơn và loại bỏ các bánh lái ngang. Vào năm 2000—2003, 4 chiếc tàu ngầm dược lắp containers Dry Deck Shelter để vận chuyển các lực lượng biệt kích, các đội biệt kích người nhái, các thiết bị dưới nước, các thiết bị lặn ngầm.
Thời gian phục vụ của tàu ngầm hạt nhân khoảng 30 năm, nhưng có thể kéo dài đến 42 năm cùng với một lần nạp lại nhiên liệu hạt nhân.
18 chiếc tàu lớp SSN-688 có thể được nạp lại nhiên liệu sau một nửa thời gian công tác, sẽ trở thành ứng viên tốt để kéo dài thời gian phục vụ, do theo tính toán nếu thay đổi các thanh nhiêu liệu, tàu có thể hoạt động trong biên chế 30 năm, sau đó tàu có 2 năm tại xưởng để bảo dưỡng, sửa chữa lớn và tiếp tục phục vụ thêm 10 năm nữa, như vậy tổng thời gian hoạt của lớp tàu Los Angeles sẽ là 42 năm.