Phát triển qua kinh nghiệm tại chiến trường Iraq
Quân đội Mỹ luôn có yêu cầu khắt khe đối với những loại vũ khí được trang bị trong quân đội của mình. Ngay cả súng bắn tỉa cũng vậy, khẩu súng nào không đảm bảo độ tin cậy sẽ bị loại bỏ khỏi trang bị ngay lập tức.
Sau khi nhận được báo cáo không tốt về các lực lượng đặc nhiệm và đặc biệt là các tay bắn tỉa thuộc Lực lượng tác chiến đặc biệt Mỹ (SOF) tại chiến trường Iraq, quân đội Mỹ đã mở cuộc thi nhằm tìm kiếm một khẩu súng bắn tỉa mới.
Có 3 công ty tham gia cuộc thi này là Knight's Armament (KAC), Remington và DPMS Panther Arms.
Ngày 28/9/2005, qua nhiều vòng kiểm tra và thử nghiệm khắc nghiệt, khẩu súng bắn tỉa của công ty Knight's Armament đã được lựa chọn với tên gọi M110 SASS (viết tắt của Semi-Automatic Sniper System, Hệ thống súng bắn tỉa bán tự động).
Từ tháng 5 - 6/2007, M110 được tiến hành thử nghiệm lần cuối cùng tại Fort Drum, New York dưới sự đánh giá của các lực lượng đặc biệt và những tay bắn tỉa được đào tạo từ 10th Mountain Division (một sư đoàn chuyên thực hiện các nhiệm vụ ở vùng núi và vùng cực).
Tháng 4/2008, các binh sĩ thuộc lực lượng Task Force Fury tại chiến trường Afghanistan là đối tượng đầu tiên trong vùng chiến sự được trang bị súng M110. Qua sử dụng, các binh sĩ đánh giá khẩu súng này rất cao, nhất là về độ tin cậy và khả năng bắn bán tự động so với súng bắn tỉa bolt-action M24 đang phục vụ.
Theo dự kiến, Thủy quân lục chiến Mỹ sẽ trang bị M110 để thay thế cho một số khẩu M39 (súng bắn tỉa cải tiến từ súng trường M14) và toàn bộ Mk 11 (phiên bản SR-25 dành cho Thủy quân lục chiến Mỹ). Hiện tại, khẩu súng này được sản xuất tại công ty Knight's Armament ở Titusville, Florida.
Súng bắn tỉa bán tự động có độ chính xác cao
M110 có khối lượng 6,94 kg với đầy đủ ống ngắm, chân chống chữ V và hộp tiếp đạn 20 viên. Súng có chiều dài 1.029 mm khi phần báng được kéo tối đa, nòng súng dài 508 mm.
Về thiết kế, súng có bề ngoài khá giống khẩu SR-25/ Mk 11 Mod 0. Tương tự như SR-25, M110 được phát triển dựa trên khẩu súng trường AR-10 của Eugene Stoner. Những cải tiến lớn từ KAC đã giúp súng có được sự tương đồng giữa các chi tiết với AR-15, nâng cao độ tin cậy và tăng độ chính xác.
Để tăng tính cơ động, M110 sử dụng tối đa các bộ phận và chi tiết được làm từ polymer cao phân tử. Tuy nhiên, để đảm bảo độ tin cậy cho một khẩu súng có thể bắn nhiều và nhanh như M110, KAC phải sử dụng khá nhiều vật liệu thép. Súng có hai màu cơ bản là đen và nâu đất.
Súng có một báng cố định với hình dáng tương tự như của khẩu SR-25. Tuy nhiên, điểm khác biệt rõ nhất chính là báng súng có khả năng thay đổi chiều dài mà không cần bất cứ dụng cụ nào.
Cụ thể, ở phần cuối báng về phía bên phải có một bánh răng, xạ thủ sẽ nới lỏng bánh răng đó và kéo phần đệm tựa vào vai sao cho phù hợp nhất với thể trạng của mình rồi siết bánh răng lại.
Nhà sản xuất cũng không quên trang bị mỗi bên báng một nơi để gắn đây đeo, giúp tiện hơn trong việc di chuyện. Ngoài ra, một số phiên bản M110 về sau được trang bị loại báng nhẹ và khả năng tinh chỉnh tốt hơn.
Nòng súng làm bằng thép tốt, được mạ chrome bên trong để chống mài mòn. Đầu nòng trang bị loa che lửa hình lồng chim tương tự như khẩu M4 giúp hạn chế lửa đầu nòng thoát ra.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính bí mật, xạ thủ cũng có thể tháo loa che lửa của M110 nhanh chóng và thay vào đó là một ống giảm thanh QD có độ dài khoảng 150 mm tương tự như trên SR-25.
Hệ thống ống lưới bao nòng ngoài chức năng cách nhiệt cho nòng súng với tay của xạ thủ còn là bộ phận để gắn 4 đường ray Picatinny.
Hệ thống ray Picatinny RAS được thay thế bởi hệ thống ray mới URX. Súng có thể sử dụng nhiều loại ống ngắm, tuy nhiên nhà sản xuất ưu tiên trang bị cho súng ống ngắm Leupold 3.5 - 10 x 40 mm.
Để đề phòng không có ống ngắm hoặc ống ngắm hỏng hóc, KAC còn trang bị thêm cho súng một thước ngắm thép ở phía sau và điểm ruối phía trước với tầm ngắm tối đa 600 m. M110 cũng có thể trang bị chân chống chữ V của Harris hoặc các thiết bị hỗ trợ nhìn đêm AN/PVS-26 hay AN/PVS-10.
Súng sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén được cải tiến từ khẩu AR-10 cũng như AR-15 để tương thích với loại đạn lớn hơn.
Thoi nạp đạn kín của M110 được làm với độ chính xác cao, có 7 móc, giúp khóa viên đạn vào vị trí cố định. Khóa an toàn của súng bố trí ở cả hai mặt phía trên tay nắm chính với các chế độ: Khai hỏa và An toàn.
M110 sử dụng cỡ đạn 7,62 x 51 mm NATO, súng thường sử dụng hộp tiếp đạn rời với sức chứa 10 hoặc 20 viên.
Cơ chế hoạt động của M110 rất giống với M4 hoặc M16, nếu xạ thủ nào đã làm quen hai khẩu súng này thì chỉ cần đào tạo bổ sung một chút là có thể sử dụng thành thạo M110.
Theo nhà sản xuất, độ chính xác điển hình của súng nằm ở khoảng từ 0,5 - 1 MOA tùy thuộc vào loại đạn, đây là thông số khá tốt đối với một súng bắn tỉa bán tự động. Các loại đạn như M118, M118LR và M852 (168 g) đều được quân đội Mỹ chấp thuận đưa vào sử dụng trong chiến đấu.
Tầm bắn hiệu quả của M110 nằm ở khoảng 800 m hoặc xa hơn tùy vào kỹ năng của xạ thủ. Theo nhiều tay bắn tỉa, đó là tầm bắn tối đa khi thời tiết tốt. Với loại đạn M118LR và xạ thủ có kỹ năng tốt, tầm bắn của súng đạt 1.000 m hoặc hơn.
M110 đang được đánh giá là một trong những khẩu súng bắn tỉa bán tự động hàng đầu trên thế giới với độ tin cậy cao, chính xác và có thể sử dụng dễ dàng bởi xạ thủ thuận tay trái hay phải.
Đặc biệt, khả năng bắn nhanh của súng làm cho xạ thủ có khả năng chống lại sự truy quét của kẻ địch trong phạm vi gần. Hiện tại, M110 đang được biên chế với số lượng không lớn trong quân đội Mỹ.