Lịch sử phát triển
Dự án phát triển một hệ thống pháo tự hành dựa trên lựu pháo nòng dài Fälthaubits 77 (FH 77) đã được Thụy Điển đặt ra từ năm 1995. Mẫu thử nghiệm được đặt tên là FH 77BD (dùng pháo FH 77B L47) và FH 77BW (dùng pháo FH 77B L52).
Đến năm 2003, Försvarets Materielverk (FMV), Cơ quan mua sắm quốc phòng của Thụy Điển đã ký hợp đồng với Bofors (nay là BAE System Bofors) để chế tạo 2 nguyên mẫu pháo tự hành FH 77BW với chiều dài nòng tăng từ 39 lần lên đến 52 lần đường kính.
FH 77BW L52 đã trải qua các cuộc thử nghiệm ở Thụy Điển trong năm 2005 và 2006. Tháng 9/2006, FMV ký hợp đồng cho công tác thiết kế chi tiết.
Đến tháng 1/2007, FMV ký tiếp một hợp đồng cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Trong tháng 9/2008, Chính phủ Thụy Điển phê duyệt giai đoạn phát triển cuối cùng và mua sắm các hệ thống pháo tự hành FH 77BW L52, hay còn gọi là Archer.
Tháng 11/2008, Thụy Điển và Na Uy có một thỏa thuận hợp tác cho sự phát triển của Archer. Đến tháng 1/2009, BAE Systems ký hợp đồng hoàn thành nghiên cứu giai đoạn cuối, nguyên mẫu hoàn thiện được ra mắt trong tháng 7/2009.
Công việc sản xuất được hoàn thành vào năm 2010 và pháo tự hành Archer đã sẵn sàng đưa vào biên chế trong tháng 5/2012.
Chi tiết của hệ thống pháo tự hành Archer
Pháo tự hành Archer sử dụng khung gầm xe tải địa hình 6x6 Volvo Construction Equipment A30D sửa đổi, với cabin và động cơ bọc giáp, chống được đạn 7,62mm, mảnh pháo và mìn có trọng lượng 6 kg (theo chuẩn Level 2 STANAG 4569).
Xe cũng có khả năng phòng vệ xạ - sinh - hóa (NBC), cabin chứa được 4 người, tốc độ tối đa 70 km/h trên đường nhựa, tầm hoạt động 500 km, đi được trên lớp tuyết dày 100 cm, vượt chướng ngại vật cao 0,5 m, vượt hào rộng 0,9 m và lội nước sâu 1,2 m.
Ngoài ra, xe cũng được trang bị hệ thống trợ lái khẩn cấp (Emergency Driving Equipment) Hutchinson AMFVI, giúp di chuyển một cách dễ dàng khi tất cả các lốp xe đã bị thủng.
Pháo Archer sử dụng khung gầm xe tải Volvo A30D 6x6
Archer dùng pháo FH 77BW 155 mm L52 thay vì L39 như lựu pháo xe kéo FH 77B, tuy nhiên bệ đỡ và hệ thống giảm giật vẫn là của FH 77B.
Cận cảnh khẩu pháo FH 77BW L52 155 mm của hệ thống pháo tự hành Archer
Archer có hệ thống kiểm soát hỏa lực, hệ thống dẫn đường quán tính và radar đo sơ tốc đầu nòng. Dữ liệu từ radar sẽ được tải về máy tính trên khoang và tính toán để nạp dữ liệu bắn.
Tổ hợp cũng được trang bị hệ thống chỉ điểm cho pháo binh và dẫn đường mặt đất Sagem’s Sigma 30 do Pháp cung cấp.
Để phòng vệ tầm gần, Archer có trạm vũ khí điều khiển từ xa M151 Protector Remote Weapon System (RWS) do Kongsberg Defence & Aerospace của Na Uy và Thales của Pháp phát triển được lắp trên nóc cabin.
M51 gồm một số ống ngắm quang học ngày và đêm, cùng với một khẩu súng máy 7,62 mm hoặc 12,7 mm, hoặc hệ thống vũ khí điều khiển từ xa Lemur của BAE Systems tương tự như M151 Protector.
Pháo tự hành Archer mang theo 20 viên đạn trong thiết bị nạp tự động, nó có thể dùng liều phóng rời kiểu module chuẩn NATO hoặc liều phóng rời Uniflex 2 của Bofors.
Liều phóng rời Uniflex 2IM có 2 kích thước, một chứa đủ và một chứa một nửa lượng thuốc phóng. Cả hai đều dùng thuốc phóng không nhạy Guanylurea Dinitramide (GuDN).
Liều phóng rời kiểu module giúp tăng khả năng bắn nhiều phát đạn đồng thời vào một mục tiêu (Multiple Rounds Simultaneous Impact/ MRSI).
Archer có thể bắn tất cả các loại đạn pháo 155 mm chuẩn NATO với tầm bắn lên đến 30 km hoặc 40 km nếu dùng đạn có động cơ đẩy rocket, Archer bắn được cả đạn pháo chống tăng có dẫn đường BAE System/Nexter BONUS.
Loại đạn này mang 2 đạn chống tăng con có đầu dò hồng ngoại và laser đo cao. Ở độ cao 175 m, 2 đạn con sẽ tìm kiếm mục tiêu như xe tăng, xe bọc thép,… trong diện tích 32.000 m2.
Khi phát hiện mục tiêu, đạn con sẽ phóng đạn nổ lõm xuống với khả năng xuyên đến 100 mm giáp. Ngoài ra, pháo Archer cũng có thể bắn đạn dẫn đường bằng GPS Raytheon/Bofors M982 Excalibur với tầm bắn lên đến 60 km.
Khả năng cơ động và triển khai
Pháo tự hành Archer có khả năng cơ động, tính việt dã và tự động hóa cao. Chỉ cần 4 người là đủ để vận hành khẩu pháo từ trong cabin mà không cần phải ra ngoài.
Với trọng lượng khoảng 30 tấn, Archer dễ dàng vận chuyển được bằng tàu hỏa cũng như máy bay vận tải Airbus A400M. Phía sau đuôi xe có một thanh ổn định thủy lực lớn đặt xuống đất để chiếc xe vào vị trí bắn đã được chọn.
Góc tà của pháo là 0o - 70o, góc phương vị +75o, thời gian triển khai và rút lui cũng như tái triển khai là ít hơn 30 giây.
Hệ thống cung cấp hỏa lực tấn công chính xác và hỏa lực bền vững cao để hỗ trợ cho các hoạt động bắn sâu. Với hơn 25 tấn đạn, mỗi khẩu pháo và có thể hoạt động đến 24 giờ.
Một khẩu pháo tự hành Archer có thể bắn liên tục 75 viên đạn trong 1 giờ, tốc độ bắn lên đến 9 phát/phút, để bắn hết 20 viên đạn trong thiết bị nạp, Archer chỉ mất 2,5 phút và có khả năng bắn loạt 3 viên trong 15 giây.
Khả năng bắn nhiều phát đạn đồng thời (Multiple Rounds Simultaneous Impact/ MRSI) giúp Archer bắn được 6 viên vào mục tiêu cùng lúc và có thể bắn trực xạ vào mục tiêu cách 2.000 m.
Mỗi khẩu pháo tự hành Archer đều có 1 xe cung cấp và nạp đạn, thời gian nạp đạn cho pháo là 8 phút.
Các quốc gia sử dụng
Hiện tại chỉ có Thụy Điển đặt mua 24 hệ thống pháo tự hành Archer, trang bị cho Trung đoàn Pháo binh số 9, hợp đồng được ký vào năm 2009 và đến tháng 9/2013, họ được nhận những hệ thống đầu tiên.
Na Uy cũng có hợp đồng mua 24 hệ thống, tuy nhiên thương vụ này đã bị hủy bỏ vào tháng 11/2013 vì thời gian bàn giao chậm cũng như giá thành quá cao, trên 10 triệu USD/hệ thống.
Croatia cũng dự định mua 24 pháo tự hành Archer nhằm thay thế pháo tự hành 2S1 Gvodika cũ từ thời Liên Xô, tuy nhiên do khủng hoảng kinh tế nên cuối cùng họ đã chọn mua 12 khẩu PzH 2000 với trị giá 54 triệu USD.
Hệ thống pháo tự hành FH 77BW L52 Archer