Năm 2002, Bộ Công an thụ lý điều tra chuyên án mang bí số Z.501 (Năm Cam và đồng phạm). Ông Nguyễn Văn Nên khi đó là Phó trưởng phòng, Phó Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Tiền Giang và Nguyễn Tuyến Dũng – Điều tra viên của cơ quan này cùng một số điều tra viên khác được điều động tham gia chuyên án.
Lạm quyền khi điều tra
Chuyên án trên kết thúc thành công, Bộ Công an tiếp tục điều tra một số vụ án có dấu hiệu liên quan đến các băng nhóm tội phạm có tổ chức, trong đó có vụ “gây rối trật tự công cộng” xảy ra tại Công ty Ga Bình Dương (trụ sở tại Khu công nghiệp Đồng An), do Công ty Cổ phần Hưng Thịnh làm chủ đầu tư.
Từ đây, ông Nguyễn Văn Nên và Nguyễn Tuyến Dũng đã có những hành vi sai phạm.
Cụ thể: ngày 3/4/2003, Cơ quan CSĐT Bộ Công an ra quyết định khởi tố vụ án “gây rối trật tự công cộng” trên, ông Nguyễn Văn Nên và Nguyễn Tuyến Dũng được phân công điều tra vụ án.
Gần một tháng sau, ông Nguyễn Văn Nên ký lệnh bắt khẩn cấp ông Bùi Mạnh Lân – Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc công ty Hưng Thịnh. Trong quá trình vụ án đang được điều tra, vợ chồng ông Nguyễn Văn Cư, bà Huỳnh Thị Thu có đơn tố cáo ông Lân có hành vi chiếm đoạt 23.283m2 đất tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Về mối quan hệ giữa vợ chồng ông Cư và ông Lân: vào năm 1996, do không có tiền để nộp thuế sử dụng đất cho nhà nước, vợ chồng ông Cư đã thỏa thuận để công ty Hưng Thịnh thay mình chi 3 tỷ đồng nộp tiền sử dụng đất và san lấp mặt bằng.
Đổi lại, công ty Hưng Thịnh được quản lý, sử dụng thửa đất này đồng thời công ty cũng phải chấp nhận bà Thu là cổ đông góp vốn với số tiền 300 triệu đồng.
Sau đó, dù đã nhận tiền nhưng bà Thu không san lấp mặt bằng theo thỏa thuận, giấy tờ lô đất trên bà không giao cho Hưng Thịnh mà đưa cho một công ty khác thế chấp vay tiền ngân hàng trong vụ án Epco – Minh Phụng.
Sau đó, công ty Hưng Thịnh đã được tòa tuyên nhận lại lô đất trên. Do bà Thu vi phạm thỏa thuận nên công ty Hưng Thịnh quyết định tước tư cách cổ đông của bà Thu.
Sau sự việc trên, năm 2001, bà Thu kiện công ty Hưng Thịnh ra TAND huyện Dĩ An (Bình Dương) đòi lại số đất trên.
Trong lúc, TAND huyện Dĩ An đang thụ lý giải quyết, thấy ông Bùi Mạnh Lân bị bắt, vợ chồng bà Thu liền làm đơn tố cáo đến ban chuyên án do ông Nên và bị cáo Dũng phụ trách. Lúc này, ông Lân đã bị bãi nhiệm chức Chủ tịch HĐQT và Giám đốc công ty Hưng Thịnh.
Biết vụ việc trên là tranh chấp dân sự, TAND huyện Dĩ An đã thụ lý nhưng ông Nên và bị cáo Dũng vẫn trích xuất ông Lân ra gặp vợ chồng bà Thu, tác động ông Lân ký biên bản thỏa thuận đồng ý trả lại lô đất trên cho vợ chồng bà Thu để nhận 3 tỉ đồng chưa kể 2,25 tỉ đồng ngoài biên bản thỏa thuận.
Sau đó, bị cáo Dũng và ông Nên tiếp tục tự ý tạm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng lô đất trên do ông Lân nộp mà không báo cáo lãnh đạo.
Do mục đích đòi đất đã đạt được nên vợ chồng bà Thu rút đơn khởi kiện và đưa cho ông Nên và Dũng tổng cộng 5,25 tỉ đồng (3 tỉ theo biên bản thỏa thuận, 2,25 tỉ ngoài biên bản). Nhận tiền từ vợ chồng bà Thu, bị cáo Dũng không đưa cho công ty Hưng Thịnh hay ông Lân mà chỉ đạo cấp dưới đem đến gửi ngân hàng để hưởng lãi suất.
Với hành vi trên, Nguyễn Tuyến Dũng đã bị TAND tỉnh Tiền Giang tuyên phạt mức án 10 năm tù về tội “lạm quyền khi thi hành công vụ”. Riêng ông Nên, do tâm thần phân liệt nên đã bị tòa án tuyên buộc áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc và được đình chỉ điều tra.
Hủy án
Tại phiên tòa phúc thẩm, vị cựu trung tá Nguyễn Tuyến Dũng giữ nguyên kháng cáo kêu oan. Bị cáo Dũng trình bày: “vụ án có nhiều nội dung chưa được làm rõ, vi phạm nghiêm trọng tố tụng trong quá trình điều tra, xét xử. Bản án tuyên không khách quan và gây oan sai cho tôi”. Từ đó, ông Dũng đề nghị tòa phúc thẩm xem xét.
Ngoài ra, ngoài ông Lân được xác định là bị hại trong vụ án thì 2 người còn lại là vợ chồng Cư, bà Thu lại có đơn kháng cáo cho rằng mình không bị thiệt hại.
Sau khi xem xét, HĐXX nhận định suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử ông Dũng, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đều cho rằng hành vi của bị cáo đã gây thiệt hại cho công ty Hưng Thịnh (vì ông Lân đã bị bãi nhiệm chức vụ nhưng vẫn ký biên bản thỏa thuận trả đất của công ty cho vợ chồng bà Thu - PV).
Thế nhưng, suốt quá trình xét xử, cấp sơ thẩm đã không đưa công ty này vào tham gia tố tụng. Đây là một thiếu sót đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài ra, trong vụ án hình sự, thiệt hại là yếu tố bắt buộc để làm căn cứ xác định tội phạm, cơ quan tố tụng phải chứng minh được hành vi của bị cáo gây thiệt hại cho ai, thiệt hại bao nhiêu? Trong vụ án này, cơ quan tố tụng đều khẳng định hành vi của bị cáo Dũng gây thiệt hại nhưng lại không xác định được thiệt hại là bao nhiêu.
Về thiệt hại công ty Hưng Thịnh, cấp sơ thẩm tuyên tách ra để xem xét bằng một vụ kiện dân sự khác là hoàn toàn sai lầm, vi phạm nghiêm trọng quy định tố tụng. Những thiếu sót trên của cơ quan tố tụng cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Từ đó, HĐXX tuyên hủy toàn bộ bản án.