Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Bệnh có thể lây truyền qua đường hô hấp khi ho, hắt hơi hoặc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc vật dụng bị ô nhiễm.
Khi bị bạch hầu, bệnh nhân thường xuất hiện các triệu chứng điển hình như sốt nhẹ, ho, khàn tiếng, đau họng dẫn đến chán ăn. Sau khoảng 2 đến 3 ngày, xuất hiện giả mạc màu trắng ngà dày dai, bám chặt vào mặt sau hoặc lan rộng hai bên thành họng, dễ chảy máu. Giả mạc thường bắt đầu từ amidan, sau đó lan rộng sang các bộ phận khác của họng và thanh quản. Đây là một trong những triệu chứng phổ biến, dễ nhận biết của bệnh. Bệnh nhân cũng có thể bị chảy máu cam, chảy máu nướu, chảy máu mũi. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân có thể bị suy hô hấp, viêm cơ tim, tổn thương thần kinh, thậm chí tử vong. Tỷ lệ tử vong do bệnh trung bình khoảng 5 – 10%.
Ngoài ra, ở trẻ em, bệnh bạch hầu có thể có thêm một số triệu chứng khác như: sốt cao (thường trên 39°C), co giật, bồn chồn, kích động, khó thở, mất tiếng.
Bác sĩ Nguyễn Văn Thắng (BV Đại học Y) cho biết, không phải tất cả người nhiễm vi khuẩn bạch hầu đều có triệu chứng đầy đủ. Một số người có thể chỉ có triệu chứng nhẹ hoặc thậm chí không có triệu chứng gì. Tuy nhiên, những người này vẫn có thể lây bệnh cho người khác.
Khi phát hiện bản thân hoặc người thân mắc bệnh bạch hầu, bác sĩ Thắng hướng dẫn người bệnh và người nhà cần làm ngay những việc sau:
Cách ly người bệnh: Nếu bạn nghi ngờ bản thân hoặc người thân mắc bệnh bạch hầu, điều quan trọng nhất là phải cách ly người bệnh khỏi những người khác để ngăn ngừa lây lan. Cho người bệnh ở trong phòng riêng, có đầy đủ ánh sáng và thông gió. Hạn chế tiếp xúc trực tiếp với người bệnh. Nếu cần thiết phải tiếp xúc, hãy đeo khẩu trang y tế và rửa tay kỹ lưỡng sau khi tiếp xúc.
Gặp bác sĩ ngay lập tức: bệnh bạch hầu là một bệnh nguy hiểm và cần được điều trị kịp thời bằng kháng sinh. Hãy đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để được bác sĩ khám và điều trị. Không tự ý mua thuốc về điều trị tại nhà vì có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm.
Ngoài ra, bạn cũng có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa khác như: báo cáo cho cơ quan y tế địa phương để họ có thể thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh . Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước, especially sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn và sau khi tiếp xúc với người bệnh. Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi bằng khăn giấy hoặc khuỷu tay. Tránh dùng chung đồ dùng cá nhân như khăn mặt, bàn chải đánh răng, cốc chén với người bệnh. Vệ sinh nhà cửa, đồ dùng và vật dụng thường xuyên bằng dung dịch sát khuẩn. Tiêm phòng đầy đủ vắc-xin phòng bệnh bạch hầu cho bản thân và trẻ em.
Bác sĩ Thắng khẳng định: “Bệnh bạch hầu là một bệnh nguy hiểm, nhưng có thể phòng ngừa được bằng cách tiêm phòng đầy đủ và thực hiện các biện pháp vệ sinh cá nhân”.
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có vắc xin đơn phòng bệnh bạch hầu , tuy nhiên người bệnh có thể tiêm các loại vắc xin phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu, vừa phòng được bệnh bạch hầu vừa phòng được nhiều bệnh truyền nhiễm khác chỉ trong một mũi tiêm.
Phụ huynh cần cho con tiêm vắc xin phòng bệnh bạch hầu theo chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) lúc trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi. Đồng thời thực hiện các mũi tiêm nhắc lúc trẻ 16-18 tháng tuổi; 4-7 tuổi; 9-15 tuổi vì lúc này khả năng bảo vệ của vắc xin bạch hầu suy giảm theo thời gian, việc tiêm mũi nhắc là rất cần thiết. Theo đó, những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh bạch hầu như phụ nữ trước hoặc đang mang thai, người già trên 50 tuổi; người mắc bệnh mạn tính… cũng cần tiêm đầy đủ các mũi vắc xin phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này.
Vắc xin phòng bạch hầu hiện có trong tất cả các vắc xin phối hợp như vắc xin phối hợp 3 trong 1; vắc xin phối hợp 4 trong 1; vắc xin phối hợp 5 trong 1; vắc xin phối hợp 6 trong 1. Trong đó, vắc xin 5 trong 1 và 6 trong 1 được chỉ định tiêm chủng cho trẻ từ 6 tuần tuổi đến 2 tuổi. Vắc xin 4 trong 1 được chỉ định tiêm chủng cho trẻ từ 2 tháng đến dưới 7 tuổi. Vắc xin 3 trong 1 được chỉ định tiêm chủng cho trẻ từ 4 tuổi trở lên và người lớn. Và vắc xin phòng ngừa bạch hầu, uốn ván có thể tiêm cho trẻ từ 7 tuổi đến người lớn.