Ở thời Lê Mạt, do phép thi cử không nghiêm cẩn, nên xảy ra nhiều vụ gian lận, kết quả sai lệch nên phải thi lại. Thời Nguyễn, khi có sai phạm hoặc một số lần vua xem kết quả không ưng ý, cũng cho thi lại.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư (tục biên, quyển 19), thời vua Lê Huyền Tông, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 2 (1664) có sự kiện chúa Trịnh Tạc bắt thi lại vào tháng 4 như sau:
“Sai Phó tướng Thiếu phó Tông quận công Trịnh Hoành và Bồi tụng Lễ bộ Tả thị lang Phong Lộc tử Ngô Tuấn thi lại sinh đồ các xứ ở bãi cái sông Nhị (tức sông Hồng). Trước đây, phép thi sơ lược, còn cho mang sách vào trường thi. Từ năm Canh Tý (1660) đến nay, tuy đã cấm thi, nhưng chưa được chu đáo nghiêm cẩn, nên người đỗ có nhiều người học dốt mượn làm hộ, khiến dư luận xôn xao.
Đến đây, sai quan cho thi lại các sinh đồ ba khoa Đinh Dậu (1557), Canh Tý (1660), Quý Mão (1663). Đề thi là một bài thơ Đường luật và một bài ám tả chính văn kiêm đại chú trong tứ thư. Người nào đỗ vẫn được công nhận là sinh đồ. Người nào hỏng phải ở lại ba năm để học tập, vẫn được miễn tạp dịch. Nếu thi lại lần nữa vẫn không đỗ mới trở về hạng dân, chịu lao dịch như dân thường”.
Đời vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương, tháng 11 năm 1726, sử cũng ghi một vụ thi lại những người đã đỗ hương cống ở lầu Ngũ Long.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết rằng: “Lúc ấy, việc thi cử phần nhiều nhũng lạm, con em nhà quyền thế được đỗ hương cống, ít người có tài thực học.
Nguyễn Công Cơ nói về việc này, nên có lệnh phải thi lại, kết quả đánh hỏng 28 người, trong số ấy có: Con trai Tham tụng Lê Anh Tuấn, con trai Huân quận công Đặng Đình Gián, con nuôi Nội giám Thiếu bảo Đỗ Bá Phẩm cùng cống sĩ ở các xứ.
Những người này phải giao xuống pháp đình xét hỏi để trị tội nặng. Triều đình nhận thấy Công Cơ là người nói thẳng, nên cho thăng lên chức Thiếu bảo”.
Theo Cương mục, thì năm 1741, chúa Trịnh Doanh cũng phải cho thi phúc khảo cống sĩ. Lúc ấy phép thi buông lỏng, người ít học mà là họ ngoại của nhà quyền thế, phần nhiều trúng tuyển nhũng lạm.
Trịnh Doanh biết chuyện, hạ lệnh cho thi khảo lại ở Trung Sa. Các quan bàn luận, lấy cớ rằng, gặp lúc binh lửa, học trò bị thất học, nên lựa chọn một cách khoan hồng, Trịnh Doanh đành theo lời, mười phần cống sĩ chỉ thải đi hai, ba phần thôi.
Năm 1751, đời Lê vua Hiển Tông. Chúa Trịnh Doanh cũng một lần nữa phải bắt thi lại. Năm đó, chúa đi đánh dẹp ở miền Tây về, thấy các viên đề điệu, giám thí, giám khảo, khảo thí ở các trường đều coi thường pháp luật, công nhiên nhờ cậy lẫn nhau lấy đỗ, dư luận xôn xao.
Trịnh Doanh giận lắm, mới sai Trần Danh Ninh làm Điển cử, cho thi lại các cống sĩ. Khóa đó, Ngô Đình Oánh và Trần Huy Mật làm hầu đề (quan ra đề), hỏi nhiều câu thâm thúy khó khăn, khiến các cống sĩ bị hỏng đến quá nửa. Các viên đề điệu, giám thí, giám khảo đều bị giáng cấp và bãi chức.
Theo Cương mục, thì khoa thi năm đó, các cống sĩ bị đánh hỏng hơn 200 người; quan trường đều bị biếm chức hoặc bãi chức, duy có Vũ Công Trấn, giữ chức Đề điệu trường thi Kinh Bắc, là được miễn nghị.
Năm 1774, lại một lần nữa học trò các xứ phải thi lại, do có cuộc phúc khảo của triều đình, thấy có việc lấy đỗ, đánh hỏng lộn xộn, nên giáng chức Phủ doãn và hai ty Thừa hiến, Chính đường là bọn Lê Doãn Bưu.
Sử nhà Nguyễn, bộ Cương mục, phê phán những kỳ thi như thế rằng: “Quan trường cùng người gian trá làm như họp chợ. Phép thi như thế, thối nát quá chừng”.
Khoa thi Hương năm 1765, xảy ra một vụ chấm bài sai lệch kết quả ở trường thi Nghệ An. Khi đó, có người tố cáo trường thi Nghệ An lấy tên Nguyễn Ky đỗ là quá lạm. Triều đình hạ lệnh thi lại, quả nhiên tên Ky không làm nổi bài, bỏ quyển giấy trắng. Bọn Dương Sử và Nguyễn Duy Thức giữ chức chấm thi ở trường thi này, đều vì cớ lấy đỗ hoặc đánh hỏng không tinh tường, phải tội giáng chức.
Trong vụ án trường thi liên quan đến “Thần Siêu, Thánh Quát” đời vua Thiệu Trị, triều Nguyễn cũng bắt phải thi lại.
Đó là việc xảy ra ở trường thi Thừa Thiên, mùa Thu năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), hai viên sơ khảo là Cao Bá Quát và Phan Nhạ ngầm lấy muội đèn làm mực chữa văn bài thi của học trò gồm 24 quyển, đỗ được 5 tên.
Việc này bị viên Giám sát trường vụ là Hồ Trọng Tuấn, tham hặc là trường pháp không đúng. Vua giao cho bộ Lễ và viện Đô sát tra xét nghị tội. Bọn Bá Quát thú nhận là sính bút làm càn, chứ không có ai dặn dò gửi gắm gì cả.
Án xử Quát, Nhạ đều phải tội xử tử; chủ khảo và giám khảo thì hoặc phải cách, hoặc phải giáng chức có khác nhau.
Sau đó, vua sai thự Thị lang bộ Hình là Ngô Văn Địch, Chưởng ấn Cấp sự trung là Lê Chân cho gọi cả 5 cử nhân này đến họp ở viện Tả đãi lậu, ra đủ đầu bài cả 3 kỳ để thi lại. Khi quyển thi của 5 người ấy được dâng lên, văn đều khá, đáng lấy đỗ được cả, lại thưởng trả lại cho vào hạng cử nhân.
Thự Đông các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn có can vua rằng, để cho nghiêm quy luật trường thi, không nên lấy đỗ những người này, nhưng nhà vua phán rằng: “Đại học sĩ nói phải lắm. Song ân điển buổi ban đầu, đã cho tăng thêm số lấy đỗ, không nỡ khắc nghiệt quá lắm. Gia ơn cho bọn học trò, là ý của ta, đặc cách khoan rộng cho họ”.
Năm Tự Đức thứ 6 (1853), sau kỳ thi Đình, nhà vua cũng cho thi lại, vì cho rằng đề thi ban ra: “Mới nói về việc hay dở của đời xưa đời sau, cùng là nguồn gốc kinh sử, đó chỉ là xét về học vấn, dùng văn chương lấy nhân tài. Đến như sự trù tính công việc có xác đáng hay không và kiến thức cao minh, thì chưa từng nói đến, thực không phải là ý kiến thu lượm được thực sự”.
Sau đó, vua cho các người trúng cách phải thi lại ở nhà Duyệt Thị, đều hỏi lấy mấy điều về việc hiện thời rồi mới xếp hạng các tiến sĩ. Năm đó, ông Hoàng Diệu đỗ Phó bảng.