Lấy Nho học làm chân lý sống, vị Tiến sĩ tài năng, đức độ Doãn Khuê đã ra sức lập đức, lập công, lập ngôn một cách trọn vẹn khi cống hiến sức lực và sự nghiệp của mình cho sự bền vững của dân tộc.
Trắc trở đường quan
Doãn Khuê tên tự là Bảo Quang, sinh ngày 15/10/1813 trong một gia đình có truyền thống hiếu học tại xã Ngoại Lãng, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương (nay là xã Song Lãng, Vũ Thư - Thái Bình). Thân phụ ông vốn là người thanh liêm, cương trực nên mặc dù học giỏi nhưng cụ vẫn không đi thi mà ở nhà dạy học.
Khi lên 9 tuổi, Doãn Khuê được cha dạy bảo chu đáo, song vì cảnh nhà nghèo túng nên cha phải gửi ông sang nhà bác họ (cụ Tú Cả) để vừa chăn trâu vừa tiếp tục được học.
Khi Doãn Khuê mới 11 - 12 tuổi đang theo học cụ Tú Cả và có nhiều triển vọng thì cha mẹ lần lượt qua đời. Cụ Tú Cả thương cháu càng quyết tâm cho Khuê học tập. Doãn Khuê được cử sang học cụ Phạm Diệu (thân phụ của Tiến sĩ Phạm Thế Hiển) ở Luyến Khuyết (xã Thụy Phong, Thái Thụy - Thái Bình).
Vốn là người có tư chất thông minh từ nhỏ, được sự giúp đỡ của thầy dạy, khoa thi Đinh Dậu (1837) khi mới 24 tuổi Doãn Khuê đã đỗ Cử nhân. Ngay năm sau khoa Mậu Tuất (1838) ông vào Huế dự kỳ thi hội. Kết quả kỳ thi không phụ tấm lòng của thầy, Doãn Khuê đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân (đứng thứ tám).
Doãn Khuê đã trải qua các chức: Hàn lâm viện biên tu, Tri phủ Ứng Hòa, Giám sát ngự sử, quyền Đốc học Nam Định, Đốc học Sơn Tây, Đốc học Nam Định; Thương biện kiêm Hải phòng sứ, Doanh điền sứ... Cùng với các chức trên, ông còn được phong hàm: Nội các thừa chỉ, Thị giảng học sĩ, Quang lộc tự khanh... Ông phục vụ ba triều vua: Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, được vua Tự Đức triệu kiến và ban thẻ bài ghi hai chữ “Hiếu nghĩa”.
Trong cuộc đời mình, Doãn Khuê đã từng làm quan nhưng làm quan không vì mục đích “vinh thân phì gia” mà vì dân vì nước, vì vậy con đường làm quan của ông không bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió mà có nhiều chông gai trắc trở. Khi thì tự ông xin từ quan, khi thì bị cách lưu, miễn chức và cao hơn nữa là giáng chức. Khi làm quan trong triều, khi phải lên rừng núi nơi biên ải, khi xuống vùng ven biển chua mặn.
Doãn Khuê là một ông quan dám xả thân vì nước, vì dân. Khi không chăm lo, không bảo vệ được dân ông sẵn sàng từ quan. Dưới thời vua Thiệu Trị (1841 - 1847) ông được phong Giám sát ngự sử vùng Cao Lạng. Chứng kiến những cảnh ngang tai, trái mắt ức hiếp dân của bọn quan lại, ông đã can ngăn, đã dâng sớ về triều nhưng triều đình làm ngơ...
Bất lực trước thực trạng xã hội, ông đã cáo ốm xin về quê tĩnh dưỡng, trong thư gửi Tham tri Lễ bộ Trần Bá Đạt, ông viết: “Được sự tin cậy của nhân huynh và nhận trọng trách của triều đình, chả nhẽ lại phụ tin. Tôi làm hết sức mình trong phạm vi chức trách mà chẳng can ngăn được những việc chướng tai gai mắt, vi phạm phép nước.
Họ vin cớ ở nơi biên cương xa cung khuyết làm nhiều điều xằng bậy, nào là tệ hối lộ, tệ dùng lính tráng làm việc riêng cho gia đình, nào là xét xử các vụ án không công minh, buôn bán vàng bạc, thuốc phiện qua biên giới, không có phương sách ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc. Tôi đã nhiều lần viết sớ tấu về kinh nhưng không có kết quả gì”.
Văn quan đánh trận
Cáo ốm về quê, Doãn Khuê đã mở trường dạy học, học trò khắp nơi kéo đến xin học. Khi đất nước lâm nguy trước họa ngoại xâm, Doãn Khuê đã cổ vũ cho tư tưởng chống Pháp. Khi Đốc học Phạm Văn Nghị tổ chức đoàn quân Nam tiến, Doãn Khuê được giao thay Phạm Văn Nghị lĩnh quyền Đốc học Nam Định, ông đã tổ chức cho học sinh học tập võ nghệ, chuẩn bị kháng chiến.
Năm 1861, Doãn Khuê được bổ chức Đốc học Sơn Tây, chính thức trở lại chốn quan trường. Tình hình Sơn Tây rất phức tạp, bọn phỉ nổi lên và tàn quân Thái Bình Thiên Quốc (Trung Quốc) tràn sang khắp nơi, có nơi chúng chiếm được phủ thành, Tổng đốc Sơn Tây là Bùi Ái lại bị ốm nặng, vua Tự Đức giao cho Doãn Khuê thay thế.
Từ một văn quan như ông tự thuật “không biết cưỡi ngựa, bắn súng” nhưng “vì thấy quốc gia hữu sự” nên phải cầm quân đánh giặc. Ông đã bày mưu tính kế khiến cho quân giặc khốn đốn rút chạy, thu lại được thành, lấy lại được đất. Trong cuộc chiến này, con trai ông là Doãn Giốc và cháu là Doãn Trứ đã tử trận, bản thân Doãn Khuê cũng trọng thương.
Khi tình hình Sơn Tây đã yên ổn, Doãn Khuê được điều trở lại làm Đốc học Nam Định. Thành Nam khi ấy đang sôi sục tinh thần chống Pháp và chống lại triều đình, Doãn Khuê một mặt phê phán những tư tưởng quá khích, một mặt khuyến khích những hành động phản đối hòa ước mà triều đình đã ký nhượng ba tỉnh miền Đông, ba tỉnh miền Tây Nam kỳ cho Pháp; khuyến khích hành động “Trừ gian, sát tả” trong học sinh.
Triều đình Huế làm ngơ trước những đòi hỏi chính đáng của các sĩ phu, tiếp tục nhượng bộ Pháp. Doãn Khuê muốn từ chức tiến cử người thay nhưng không được chấp nhận.
Ông còn được giao thêm chức Thương biện kiêm Hải phòng sứ. Ông ra sức bố phòng vùng ven biển từ Ninh Bình qua Nam Định, Thái Bình. Trong lúc đi khảo sát ven biển, ông thấy nhiều vùng đất hoang hóa nên tấu trình xin cho binh lính, người dân đến khai hoang.
Sau khi thôi chức Đốc học, ông chuyển sang kiêm chức Doanh điền sứ, cùng Tri huyện Chân Định là Doãn Chi (con trai cả Doãn Khuê) cùng người dân mở mang thêm đất hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Nghĩa Hưng (Nam Định).
Dạy học và tiến cử học trò
Năm 1873, Doãn Khuê cùng các nho sĩ lập phòng tuyến chống Pháp bảo vệ thành Nam Định nhưng không thành. Sau thất bại, nhiều người bị triều đình trách phạt, Doãn Khuê bị miễn chức.
Năm 1874, Doãn Khuê được khôi phục chức Thương biện trông coi việc ruộng đất, khôi phục hàm Thị giảng học sĩ, tước Quang lộc tự khanh nhưng ông từ chối, xin về trí sĩ.
Sự nghiệp quan trường của Doãn Khuê có nhiều gian truân lẫn ẩn ức khó tỏ bày. Tuy nhiên, những cống hiến vì dân của vị Tiến sĩ này luôn được người dân lẫn triều đình ghi nhận. Ngoài làm quan, ông được biết đến trong vai trò một nhà giáo mẫu mực khi dốc hết tâm huyết để đào tạo nhân tài - như lời vua Tự Đức đã căn dặn: “Người nên hun đúc dạy bảo nhân tài để cung phụng cho quốc gia”.
Cũng như những nho sĩ đương thời, Doãn Khuê chọn nghề dạy học bởi: “Triều đình dục nhân tài tốt ư do học/ Sĩ phu chính tâm thuật bất hoặc tha kỳ” (triều đình bồi dưỡng nhân tài ắt từ học vấn/ Sĩ phu ngay thẳng, tâm thuật không mê bởi chẳng có con đường nào khác).
Giữa năm 1864, các học trò yêu nước ở Nam Định không đồng ý với việc ký hòa ước 1862 với Pháp nên đã tiến hành phá trường thi, xóa niêm yết, kéo vào biểu tình đòi bãi bỏ hòa ước.
“Đại Nam thực lục” ghi sự kiện này như sau: “Các sĩ tử thi Hương ở 2 trường thi Hà Nội và Nam Định làm huyên náo cả trường, đại để cho việc nghị hòa là không phải, hoặc làm huyên náo, hoặc làm ngăn trở, hoặc dán niêm yết, không chịu vào trường, hoặc xin hoãn kỳ thi. Khi ấy quan trường hiểu bảo rồi sĩ tử trường Nam xin đúng kỳ thi; còn trường thi Hà Nội hoãn đến hôm sau mới vào thi”.
Ở Nam Định, Doãn Khuê khen ngợi lòng yêu nước của học trò và khuyến khích đấu tranh phản đối hòa ước, nhưng ông không đồng tình với cách thức hành động của học trò. Ông phê phán việc phá trường thi, buộc phải bắt giữ thủ phạm, nhưng cũng khuyên răn rằng, việc đấu tranh nên có trật tự và có tấu sớ với lý lẽ thuyết phục, có chữ ký liên doanh của tất cả các phủ, huyện.
Cái đức của Doãn Khuê còn đáng quý ở tấm lòng của ông với học trò, mỗi khi có điều kiện ông đều tiến cử học trò mình. Trong đó có Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Huy Quỳnh được Doãn Khuê tiến cử với vua Tự Đức được trọng dụng.
Đương thời, Doãn Khuê được đánh giá là một người “lập đức, lập công, lập ngôn trọn vẹn”. Ông qua đời tại quê hương vào ngày 15 tháng 10 năm Mậu Dần (1878).
Tôn vinh bậc sĩ phu chân chính, năm 1880 người dân xã Nghĩa Thành (Nghĩa Hưng – Nam Định) lập đền thờ ghi nhớ công lao. Tiếp nối tinh thần của cha, các con Doãn Khuê đều nặng lòng yêu nước, tham gia đánh giặc gìn giữ vùng biên cương. Trong số đó, có Doãn Chí làm đến chức Tán tương quân vụ rồi hi sinh trong trận đánh với giặc phỉ ở Lạng Sơn. Mộ của Doãn Chí được thờ ở đền Trung Nghĩa.
66 tuổi đời, 40 năm làm quan, trải qua gần trọn 4 đời vua triều Nguyễn, Tiến sĩ Doãn Khuê đã dồn hết tâm nguyện cho việc canh tân đất nước. Nhưng hoạn lộ của ông cũng lắm chông gai, với một lòng yêu nước, thương dân, tính tình ngay thẳng, ông đã mấy lần bị cách lưu, giáng chức, có lúc phải từ quan, trước thực tế quan trường ức hiếp dân chúng, còn triều đình thì làm ngơ. Cuối cùng dưới thời Tự Đức, cũng đã ban phong thẻ bài Quý tự Hiếu Nghĩa.
“Là bề tôi chết trung, là phận con chết hiếu. Càng cảm động trước cái chết trung nghĩa của anh em, linh hồn của anh em tự nó không thể mất được, còn sống mãi. Nghĩa thầy trò, tình cha con vui khổ có nhau mà nay ly biệt. Tình cảm ấy còn vấn vương mãi. Ta từng đem sự việc này biểu đạt lên tỉnh đường, mong được tâu lên triều đình khen thưởng biểu dương để an ủi hồn trung” - Tế trận vong (Doãn Khuê).