Bò H’Mông là giống vật nuôi bản địa có nhiều gen tốt cần bảo tồn.
Nhiều loài bản địa đã tuyệt chủng
Hiện nay, Việt Nam ghi nhận sự tuyệt chủng hoàn toàn của 2 giống vật nuôi là lợn Sơn Vi và gà Văn Phú. 5 giống có nguy cơ mất là lợn Ỉ đen, lợn Ỉ gộc, lợn Cỏ, gà Tè và ngựa Bạch (5 giống này đang được nuôi bảo tồn tại các vùng bản địa và Trung tâm Bảo tồn giống quốc gia nhưng đang trong tình trạng nguy kịch vì số lượng cá thể xuống thấp đến mức báo động và nguy cơ bị đồng huyết cao).
26 giống đang có sự giảm đàn nhanh chóng, chỉ có 17 giống là đang tăng đàn và sản xuất ổn định. Đặc biệt, những nguồn gen lợn quý đã bị mai một rất nhiều, nhiều giống vật nuôi đặc sản như lợn Ỉ, lợn H’Mông, lợn rừng, gà Ri… đã bị tuyệt chủng hoặc mất giống thuần chủng.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do đất nước trải qua 2 cuộc chiến tranh kéo dài làm ảnh hưởng đến cơ cấu phát triển đàn vật nuôi. Mặt khác, chương trình bảo tồn nguồn gen vật nuôi ra đời muộn nên không thể thống kê được chính xác số lượng giống vật nuôi đã bị tuyệt chủng hoặc đe dọa tuyệt chủng để làm công tác bảo tồn giống. Bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập và phát triển, nhiều giống vật nuôi ngoại được nhập ồ ạt vào Việt Nam làm suy thoái và mất dần nguồn giống bản địa…
Ở Việt Nam, giai đoạn trước năm 1987, nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên di truyền được thực hiện rất tản mạn, chủ yếu mang tính tự nhiên đối với một số cây thuốc, dược liệu.
Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ KH&CN) ban hành Quyết định số 2177/QĐ-KHCN ngày 30/12/1997 về quản lý và bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật và vi sinh vật. Có thể nói, đây là những văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên đề cập đến vấn đề bảo tồn nguồn gen, từ đó nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên di truyền được tập trung hơn.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và dịch bệnh, việc nghiên cứu - phát triển những giống động, thực vật có năng suất cao nhưng không làm mất đi nguồn gen đặc trưng quý báu là yêu cầu cấp thiết.
Bảo tồn gen ở mức tế bào
Lợn Ỉ - giống vật nuôi bản địa có nhiều gen tốt cần bảo tồn.
Ứng dụng công nghệ để lưu giữ, bảo tồn nguồn gen vật nuôi đã đạt được những kết quả khả quan. Đã bảo tồn, lưu giữ được 60 nguồn gen vật nuôi và 6 nguồn gen ong nội. Đã thu thập và bảo tồn được 200 liều tinh lợn Ỉ.
Ngoài ra, đã thu thập các mẫu máu, lông, mô và tinh, phôi của 30 nguồn gen bản địa quý hiếm, đặc hữu gồm có lợn Móng Cái, lợn Ỉ, lợn Cỏ A Lưới, bò vàng, bò U đầu rìu, bò H’Mông, gà Ri, gà Hồ, gà Đông Tảo, gà Mía, gà Ác, gà Chọi, gà Móng, dê Cỏ, dê Bách Thảo, cừu Phan Rang, hươu Sao...
Tổng số thu được 2.234 mẫu dạng tế bào và 1.696 mẫu dạng ADN. Đây là những nguồn gen hết sức quý giá, khi cần thiết với các kỹ thuật hiện đại có thể phục hồi và nhân bản các giống vật nuôi quý hiếm.
Thông qua việc triển khai thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen theo Quyết định của Chính phủ, nhiều giống vật nuôi bản địa đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn bổ sung vào danh sách các giống vật nuôi được phép sản xuất, kinh doanh (gà lông chân, gà Tò, vịt Sín Chéng, vịt Minh Hương, lợn Mường Tè, lợn cỏ Bình Thuận, lợn Xao Va, ngỗng Xám).
Nhiều giống lợn và gà nội đã được công nhận nhãn hiệu tập thể (trâu Bảo Yên, gà Đông Tảo, gà móng Tiên Phong, gà Mía, lợn Móng Cái) và một số sản phẩm như thịt bò Hà Giang, vịt Cổ Lũng… được đưa vào danh sách chỉ dẫn địa lý được bảo hộ tại Việt Nam…
Trước xu hướng hội nhập, phát triển và dịch bệnh trầm trọng trên vật nuôi (dịch bệnh dịch tả lợn châu Phi diễn ra triền miên trong gần 3 năm qua, có những vùng gần như xóa sổ toàn đàn...), Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã nhanh chóng triển khai việc bảo tồn nguồn gen một số giống lợn quý ở mức tế bào.
Hiện nay, trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để bảo tồn nguồn gen quý, các nhà khoa học trên thế giới đã kêu gọi cách tiếp cận mới là ứng dụng kết hợp công nghệ tin học, công nghệ sinh học.
Xu hướng tiếp cận này tập trung vào 5 bước chính: Thiết lập ngân hàng mẫu sinh học (BioBanking) để lưu trữ tế bào, mô, phôi, tinh, trứng… của sinh vật nguy cấp, làm nguyên liệu phục hồi về sau;
Giải trình tự bộ gen sinh vật để hiểu tường tận bản chất nguồn gen quý của sinh vật cần bảo tồn và phát triển;
Sinh tổng hợp các hợp chất thay thế cho các chất có hoạt tính sinh học lấy từ động vật hoang dã quý hiếm;
Ứng dụng kỹ thuật sinh sản mới để tạo dòng, thúc đẩy nhanh quá trình sinh sản tạo con non mới ở sinh vật nguy cấp;
Thay đổi di truyền bằng cách sử dụng các kỹ thuật cải biến di truyền từ mức độ gen đến mức độ bộ gen để phá vỡ thế cân bằng giới tính (1:1) giúp quần thể sinh vật quý hiếm có cơ hội phát triển tốt hơn.
Tại Việt Nam, để bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học, từ nay đến năm 2025, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục thực hiện Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, bằng những công nghệ truyền thống.
Giai đoạn từ 2025 - 2030, sẽ định hướng nâng cấp, tích hợp công nghệ phục vụ công tác bảo tồn vật nuôi nhằm lưu giữ chắc chắn nguồn gen quý trong mọi điều kiện bất lợi và nhân nhanh được nguồn gen cho nhu cầu sản xuất.