Nga xây dựng hệ thống sonar cảm biến như thời Liên Xô
Tờ "Izvestia" của Nga dẫn nguồn từ đại diện của Bộ Quốc phòng nước này cho biết, các công ty chế tạo quốc phòng của Nga đang phát triển hệ thống sonar để bảo vệ các vùng lãnh hải của Liên bang ở Bắc Cực, có thể phát hiện tàu chiến và tàu ngầm đối phương ở khoảng cách hàng trăm cây số.
Theo nguồn tin, nhiệm vụ mà các nhà phát triển Nga phải thực hiện rất nặng nề bởi đây là một hệ thống phức hợp nhiều hệ thống con khá phức tạp. Hệ thống sẽ bao gồm 3 bộ phận cấu thành chủ chốt trên biển, trên không gian vũ trụ và trên mặt đất.
Bộ phận trên biển là các phao sonar và các cảm biến dưới nước, có nhiệm vụ cảm biến âm thanh, sao chụp và truyền tải dữ liệu. Sau đó, tín hiệu thu nhận được sẽ được truyền tải đến bộ phận cấu thành thứ 2 là các vệ tinh trên không gian.
Các vệ tinh đảm nhận nhiệm vụ trung chuyển thông tin đến yếu tố cấu thành thứ 3 là một Trung tâm quản lý và xử lý tín hiệu trên mặt đất. Trung tâm này sẽ phân tích các thông tin nhận được, đưa ra kế quả và cung cấp cho người sử dụng là các thiết bị săn ngầm.
Tuy nhiên, do phải đảm bảo yếu tố bí mật nên nguồn tin của Bộ Quốc phòng từ chối tiết lộ chính xác thời hạn mà hệ thống sẽ sẵn sàng hoạt động và địa điểm cụ thể sẽ được triển khai các hệ thống cảm biến dưới đáy biển.
Tác chiến chống ngầm luôn là vấn đề đau đầu đối với mọi cường quốc trên thế giới. Các tàu ngầm càng hiện đại càng có khả năng lặn sâu hơn, độ ồn, độ rung chấn của chân vịt, động cơ càng thấp hơn, gây nhiều khó khăn cho các phương tiện trinh sát chống ngầm trên mặt nước.
Nga - Mỹ đang chạy đua tái lập hệ thống săn ngầm dưới đáy biển
Do đó, ngoài việc sử dụng phương thức tàu ngầm đối tàu ngầm, máy bay tuần tiễu chống ngầm cánh cố định, tàu hộ vệ chống ngầm (có trực thăng săn ngầm) ra, các cường quốc như Mỹ, Liên Xô trước đây đã phát triển phương thức chống ngầm thứ 4 là các hệ thống cảm biến trên.
Hệ thống trinh sát, phát hiện tàu ngầm dưới đáy biển gồm có các yếu tố cấu thành là Trạm gốc (bao gồm Trung tâm xử lý tín hiệu và trạm nguồn); “Hệ thống phát hiện, đo đạc âm thanh dưới nước”, hay còn gọi là “Hệ thống kiểm tra, phân tích, đánh giá âm thanh dưới nước” và một trạm trung chuyển thông tin.
Được biết, trước đây Hải quân Liên Xô cũng từng có những thiết bị dạng này, được rải xuống đáy các khu vực biển gần nước mình để ngăn chặn khả năng bị tàu ngầm Mỹ xâm nhập. Mạng lưới có thể “bắt chết” cả những tàu ngầm dù là lặn sâu nhất hay là chạy êm nhất của đối thủ.
Mục đích của kế hoạch này là tìm tòi một phương thức phát hiện sớm, từ rất xa những tàu ngầm thông thường và hạt nhân của đối phương, sau đó hướng dẫn cho các phương tiện chống ngầm trên, hoặc là bắt nó nổi lên mặt nước hoặc tấn công tiêu diệt chúng”.
Tuy nhiên, sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ, chương trình này không rõ có còn được duy trì hay không. Nhưng dù sao, với việc được kế thừa nền tảng hệ thống của Liên Xô, việc xây dựng một hệ thống tương tự cũng là điều không quá khó đối với hải quân Nga.
Mỹ khôi phục và làm mới hệ thống cảm biến tàu ngầm từ thời chiến tranh lạnh
Ngay từ thời chiến tranh lạnh, cường quốc hải quân số 1 của thế giới đã phát triển một mạng lưới hệ thống giám sát dưới đáy biển, nhằm thu nhận âm thanh, phát hiện tàu ngầm từ dưới đáy biển, để ngăn chặn hạm đội tàu ngầm hạt nhân rất mạnh của Liên Xô.
Do đó, Mỹ đã xây dựng một hệ thống giám sát dưới đáy biển bằng sonar xung quanh các quốc gia "thù địch". Hệ thống này bao gồm rất nhiều thiết bị cảm biến quang học, được rải đều dưới đáy biển sâu, thềm lục địa, các luồng lạch xung yếu được kết nối chặt chẽ với nhau, ở cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.
"Chiến tranh lạnh" kết thúc, Mỹ đã đóng một bộ phận, số lượng các thiết bị cảm biến thuộc các hệ thống của Mỹ đã giảm xuống, nhưng hệ thống tại Thái Bình Dương vẫn còn tương đối hoàn chỉnh.
Năm 1991, Mỹ đã giải mật những bí ẩn của "Thiết bị nghe trộm dưới nước" thuộc "Hệ thống giám sát âm thanh" và tuyên bố chuyển đổi mục đích hoạt động của hệ thống này sang hoạt động dân sự như là theo dõi các hoạt động đánh bắt hải sản phi pháp hoặc truy tìm dấu vết của cá voi…
Tuy nhiên, trước sự trỗi dậy không ngừng của tàu ngầm Nga và Trung Quốc, Bộ Quốc phòng Mỹ đã quyết định tái xây dựng và nỗ lực phát triển công nghệ theo dõi, giám sát mới, chuyên dụng để đối phó với tàu ngầm của 2 nước này, dựa trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm đã có.
Mỹ đã xây dựng 3 hệ thống thiết bị, tương tự như kiểu xây dựng các chuỗi đảo hiện nay, nhằm giám sát toàn bộ lực lượng tàu ngầm ra, vào hoạt động ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Sơ đồ bố trí 3 hệ thống giám sát tàu ngầm dưới đáy biển của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương
Thứ nhất là Hệ thống "Dragon". Các thiết bị thuộc hệ thống này được rải bắt đầu từ khu vực quần đảo Kuril, qua quần đảo Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, Philippines đến Papua New Guinea (bao gồm cả Okinawa và trọn vẹn cả hai đầu của quần đảo Kuril). Hệ thống này cơ bản là nằm gọn trong thuộc "Chuỗi đảo thứ nhất".
Hệ thống thứ 2 mang tên "Sea Spider" được xây dựng như sau: Phía tây, từ quần đảo Aleutian thuộc bang Alaska, sang phía đông đảo Sakhalin; phía nam, chạy xuống đến khu vực phía nam quần đảo Hawaii, bao phủ một khu vực rộng lớn gồm biển Bering và bờ biển phía tây Hoa Kỳ, có chiều dài khoảng 3.000 hải lý (gần 5.500 km).
Thứ 3 là Hệ thống "Giant", bắt đầu từ tọa độ 38 vĩ bắc, giữa Thái Bình Dương, phía tây chạy đến Nhật Bản; phía đông chạy đến 150 độ kinh tây, liên kết với hệ thống "Sea Spider", bao phủ toàn bộ khu vực trung tâm Thái Bình Dương.
Theo các chuyên gia Nga, hệ thống cảm biến dưới đáy biển có những ưu điểm vượt trội so với các hệ thống giám sát tàu ngầm khác như: Có thể giám sát liên tục 24/24h, không phải thay thế trang, thiết bị và con người; tốc độ nhận biết và truyền tải thông tin sát với thời gian thực; khả năng xử lý thông tin rất nhanh, theo quy trình tự động, tránh được những sai sót do chủ quan gây ra…
Do đó, các hệ thống cảm biến âm thanh dưới đáy biển được mệnh danh là "nỗi khiếp sợ của tàu ngầm dưới đáy biển" hay "sát thủ săn ngầm dưới đáy biển".