Cụ thể, trong năm 2021, tổng điểm về mức độ tự do kinh tế của Việt Nam đạt 6,26, xếp thứ 106 trong tổng số 165 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng nhẹ so với năm 2020 cả về điểm số lẫn thứ hạng (6,19 điểm, xếp thứ 110).
Căn cứ vào các chỉ số thành phần, Việt Nam ghi nhận tăng điểm ở 4 trong 5 chỉ số thành phần chính của chỉ số tự do kinh tế (thang điểm từ 1 đến 10, trong đó giá trị cao hơn cho thấy mức độ tự do kinh tế cao hơn).
Cụ thể, 4 chỉ số thành phần tăng điểm gồm: Hệ thống pháp lý và quyền sở hữu tăng nhẹ từ 4,96 (2020) lên 5,15 (2021), xếp hạng từ 82 lên 77; Đồng tiền tốt tăng từ 6,96 (2020) lên 7,02 (2021), xếp hạng đã cải thiện từ mức 136 lên mức 128; Tự do thương mại quốc tế tăng nhẹ từ 6,40 (2020) lên 6,52 (2021), và xếp hạng đã cải thiện từ 107 lên 98; Các quy định quản lý tăng từ 6,08 (2020) lên 6,10 (2021).
So sánh với một số quốc gia khác trong ASEAN-6, mức độ tự do của kinh tế Việt Nam đứng sau Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Indonesia. Cụ thể, Malaysia xếp vị trí 56 thế giới với chỉ số tự do kinh tế là 7,19, trong khi Singapore tiếp tục đứng đầu bảng xếp hạng với Chỉ số tự do kinh tế cao nhất thế giới (8,56 điểm).