Bướu giáp nhân (bướu cổ) là bệnh lý rất phổ biến ở Việt Nam. Tỷ lệ phát hiện bướu giáp nhân gần đây tăng nhiều nhờ tầm soát bệnh bằng siêu âm vùng cổ. Thống kê của Bộ Y tế cho biết số người mắc bệnh bướu giáp nhân ở miền núi phía Bắc chiếm tỷ lệ 30 - 40% trong cộng đồng, có nơi lên tới 80%.
Ở đồng bằng phía Bắc khoảng 6 - 10% người mắc bệnh bướu giáp nhân. Ở đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ người mắc bệnh bướu giáp nhân là 20 - 30%. Trung bình hằng năm có khoảng 115.000 người được khám và chữa bệnh bướu giáp nhân.
Không chỉ thiếu i ốt mới bị bướu cổ
Bướu cổ không chỉ xuất phát từ việc thiếu iốt mà còn có những nguyên nhân khác nữa. Vì vậy, việc hiểu rõ về căn bệnh này sẽ giúp người dân chủ động phòng tránh, điều trị và có thể chung sống với căn bệnh này.
Lương y Vũ Quốc Trung cho biết theo y học cổ truyền bướu cổ chia làm nhiều loại như bướu địa phương do thiếu I ốt, ngoài ra còn các yếu tố khác như di truyền, thiếu một số thức ăn khác, điều kiện về sinh kém vì thế cùng sống một địa phương mà có một số người mới bị.
Thể bướu cổ phát tán gặp ở nữ nhiều hơn. Các học giả cho rằng là do phản ứng của tuyến giáp hoặc bài tiết không đủ hoặc do nhu cầu tăng, nội tiết tuyến giáp không đủ, tuyến làm việc tăng làm cho tổ chức tuyến sinh phì đại. Những yếu tố có liên quan.
Bướu cổ do dị hình bẩm sinh nội tiết là khả năng hấp thụ các yếu tố kháng giáp trong đó có thức ăn hoặc do thuốc thường kèm với suy giáp kéo dài hoặc thoáng qua.
Tăng như cầu nội tiết giáp, tuổi dậy thì, có thai, tắt kinh cũng có trường hợp chưa rõ nguyên nhân.
Bướu cổ không chỉ nguyên nhân là do thiếu i ốt
Lương y Trung cho biết, y học cổ truyền còn lý giải là bệnh lý chủ yếu do đàm thấp và khí trệ. Người bệnh có tỳ kém, thêm ảnh hưởng của thức ăn, nước uống làm cho đàm khí trệ mà sinh bệnh hoặc do tức giận, thương can, can khí không thông đạt, uất nên sinh đờm, đờm khí kết ở cổ mà sinh bệnh.
Đàm thấp và khí trệ là hỗ tương nhân quả cho nên khối u ngày càng to thêm. Cũng do can chủ yếu sơ tiết mà 2 mạch xung nhâm thuốc kinh can nên phụ nữ có kinh, thai nghén cho con bú đều liên quan đến khí huyết của can, những lúc đó cũng dễ mắc bệnh.
Triệu chứng lâm sàng bướu cổ
Triệu chứng chủ yếu là to tuyến giáp. Ở thể tán, lương y Trung cho rằng hay gặp ở nữ dậy thì, có thai, cho con bú, lúc tát kinh và to hơn qua những chu kỳ kinh đó tuyến giáp lại nhỏ hơn. Thường tuyến giáp to nhẹ tản mạn, chất mềm, trơn láng, đến tuổi trung niên về sau bướu có thể cứng và có nổi cục.
Trường hợp bị bướu địa phương chia theo các độ:
Độ 1 Nhìn kỹ có khi phải nhìn nghiêng mới phát hiện hoặc phải sờ nắn.
Độ 2: Nhìn thẳng đã thấy to
Độ 3: Bướu quá to
Đôi khi bướu ở vị trí đặc biệt hoặc bị chèn ép khó chẩn đoán.
Cách chữa bướu cổ
Trong y học cổ truyền, bướu cổ được sử dụng pháp điều trị thư can lý khí, hoà đàm tiêu anh.
Bài thuốc được sử dụng rộng rãi đó là tứ hải thư uất hoàn gia giảm bao gồm:
Thanh mộc hương 6gram, côn bố 10 gram, hải cáp phấn 15 gram, long đờm thảo 6 gram, hải đới 10 gram, bạch giới tử 19 gram, trần bì 10 gram, hải tảo 10 gram, hải phiêu tiêu 30 gram, hoàng dược tử 10 g ram, cát cánh 6 gram.
Hải tảo tốt cho bệnh bướu cổ.
12 bài thuốc đơn giản chữa bướu cổ
Các bài thuốc kinh nghiệm của riêng lương y Trung mọi người có thể áp dụng cho mình:
1. Hải đới 100 gram sắc uống mỗi ngày và ăn luôn xác thuốc.
2. Hải tảo, côn bố lượng bằng nhau tán bột mịn luyện mật làm hoàn mỗi lần uống 10 – 20 gram ngâm nuốt sau bữa cơm tối hàng ngày.
3. Hải tảo, côn bố lượng bằng nhau, thanh bì lượng 1/3 côn bố sao vàng tán bột làm thuốc hoàn mỗi ngày uống 10 g sau ăn tối. Uống lâu dài mới có tác dụng.
4. Uất kim, đan sâm, hải tảo đều 15 gram, sắc uống ngày 1 thang có thể cho đường uống thường xuyên, liên tục trong 3 – 4 tuần. Dùng cho thể khí huyết ứ trệ.
5. Hải đới 60 gram, đậu xanh 150 gram, nấu chin cho them đường ăn hàng ngày.
6. Côn bố, hải tảo, đậu nành 150 - 200 gram nấu chin gia đường để ăn thường xuyên.
7. Hạ khô thảo 30 gram, hải tảo 60 gram sắc uống hàng ngày.
8. Triết bối mẫu, hải tảo, mẫu lệ đều 12 gram, tán bột mịn trộn đều mỗi lần uống 6 gram, ngày 2 lần uống trước khi ăn với rượu trắng.
9. Bạch thược 15 gram, huyền sâm 9 gram, hạ khô thảo 30 gram, hải phù thạch 39 gram, chế hương phụ 12 gram, bạch giới tử 12 gram, gia cường tằm 12 gram, trạch tả 15 gram, thất diệp nhất chi hoa 20 gram, sắc uống hàng ngày.
10. Mẫu lệ, hải tảo, côn bố, bạch tật lê, bạch thược, sinh địa, huyền sâm, kỷ tử, sung uý tử sử dụng lượng bằng nhau. Tất cả tán bột mịn cho mật làm hoàn 10 gram. Mỗi ngày uống 2 – 3 lần với nước sôi.
11. Hà thủ ô 20 gram, ô mai 10 gram, côn bố 15 gram, sắc uống hàng ngày.
12. Lá sinh địa, hạ khô thảo 30 gram, sơn tra 20 gram sắc uống hàng ngày