Theo BSCKII Huỳnh Tấn Vũ, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, quýt là một loại quả rất được coi trọng vào thời xưa vì mọi bộ phận đều được dùng làm thuốc. Cổ nhân từng gọi quýt là "ngọc màu vàng". Tại Trung Quốc, quýt được coi là loại quả mang tới may mắn nên thường được ăn vào đêm tân hôn. Về y học hiện đại, múi, vỏ, hạt quýt đều là vị thuốc nổi tiếng rất được coi trọng.
Thịt quả quýt có vị ngọt, chua, tính ôn, có tác dụng nhuận phế, tiêu khát, khai vị. Thịt quả quýt có chứa đường, protein, lipid, vitamin, axit hữu cơ, chất khoáng... Thịt quýt tốt cho người bị cao huyết áp, bệnh mạch vành, đau dạ dày, suy dinh dưỡng, cơ thể suy nhược sau khi ốm...
Vỏ quýt gọi là trần bì có tính ấm, có tác dụng kiện vị (khỏe dạ dày), long đờm, trị ho, trị phong, lợi tiểu, chữa ợ hơi, đau thượng vị. Vỏ quýt có chứa tinh dầu thơm gluccoxit orange, aldehit lemon, axit béo có tác dụng hưng phấn tim, ức chế vận động của dạ dày, ruột và tử cung...
"Vỏ quýt còn là vị thuốc tốt điều trị cao huyết áp, nhồi máu cơ tim. Vỏ quýt có tác dụng tốt với các chứng bệnh tỳ vị khí trệ, chướng bụng, rối loạn tiêu hóa, kém ăn, buồn nôn, ho nhiều đờm, khó chịu trong lồng ngực...", bác sĩ Vũ nói.
Xơ quýt vị đắng, tính bình, có vitamin P giúp phòng chữa cao huyết áp, rất có ích đối với người cao tuổi. Xơ quýt còn có tác dụng điều hòa khí, tan đờm, thông lạc, thông kinh, thường dùng trị ho tức ngực, ho ra máu.
Quýt là vị thuốc quý (Ảnh minh họa)
Một thứ thường bị mọi người vứt đi khi ăn quýt đó là hạt. Hạt quýt cũng là một vị thuốc quý. Hạt quýt vị đắng, tính bình, có công hiệu điều hòa khí, giảm đau, tan u cục, thường dùng chữa sa nang, sưng đau tinh hoàn, đau lưng, viêm tuyến sữa.
Theo bác sĩ Vũ, ngay cả lá quýt cũng được người xưa dùng làm thuốc. Lá quýt vị đắng, tính bình, có tác dụng trợ gan, hành khí, tiêu thũng, tan u cục, dùng chữa các chứng đau mạn sườn, sa nang, đau vú, u cục ở vú.
Rễ cây quýt cũng được dùng trị đau răng, mụn nhọt (mụn đinh). Người phong thấp, đau lưng, đau mình dùng: Rễ quýt 16g, thổ phục linh 12g, ngưu tất 12g, thiên niên kiện 8g. Tất cả thái nhỏ, sắc với nước hoặc ngâm rượu uống. Cũng có thể nấu thành cao rồi pha rượu dùng.
Một số bài thuốc từ quýt
Dưới đây, bác sĩ Vũ giới thiệu một số bài thuốc hay từ quả, vỏ, lá, rễ… của quýt:
- Chữa cảm mạo: Vỏ quýt tươi 30g, phòng phong 15g, đổ 3 cốc nước, sắc lấy 2 cốc, hòa đường trắng uống lúc nóng 1 cốc, sau nửa giờ hâm nóng uống tiếp 1 cốc còn lại.
- Chữa ho do phong nhiệt: Vỏ rễ quýt 20g, vỏ rễ dâu 10g, rễ hoặc lá cam thảo nam 10g (hoặc cam thảo bắc 5g). Ba thứ thái mỏng, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, thêm đường, chia thành 2-3 phần uống trong ngày.
- Chữa kiết lỵ: Vỏ thân quýt 20g, vỏ quả lựu 20g, vỏ quả chuối hột 20g, rễ tầm xuân 20g, búp ổi 10g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống.
- Chữa nôn mửa: Vỏ quýt 10g, lá tỳ bà 15g sắc nước uống.
- Chữa chứng ho nhiều đờm: Quýt xanh 8-16 quả, trộn với 1 thìa nhỏ đường kính hoặc mật ong, một chút muối ăn và 5g bồ hóng (đốt bằng củi). Tất cả đem hấp cơm trong 15-20 phút, lấy ra nghiền nát, trộn đều, chia thành 2-3 phần uống trong ngày.
- Chữa đau bụng, lưng, gối: Rễ quýt 15-30g, sắc nước uống.
- Chữa sâu răng: Đào rễ quýt, rửa sạch, thêm chút muối vào nhai và ngậm.
- Chữa mụn nhọt: Dùng rễ quýt và bã rượu, 2 thứ bằng nhau, giã nhỏ, hơ nóng, đắp lên mụn.
- Chữa sưng tấy, ứ huyết: Lá quýt 40g, chia 2 phần, một phần đem phơi khô, sao vàng, sắc uống; một phần để tươi, giã nát, đắp lên chỗ bị thương. Làm liên tục trong 3-4 ngày.
- Chữa cảm cúm, nhức đầu: Lá quýt, sả, cúc tần, đại bi, hương nhu, lá bưởi, lá chanh đun nước uống và xông cho ra mồ hôi.
- Chữa rắn cắn: Lá quýt một nắm, rửa sạch, giã nhỏ, thêm ít muối và một chén nước đun sôi để nguội, chắt lấy nước uống và dùng bã đắp vào vết thương.
- Viêm tuyến sữa: Hạt quýt tươi 30g, cho ít rượu, rang khô, đổ nước sắc uống.
- Ho nhiều đờm: Cát hồng (một loại vỏ quýt chế) 10g, bột xuyên bối 3g, lá tỳ bà chế 15g, sắc uống.
- Đau chướng mạn sườn: Xơ quýt (cát lạc) 10g, vỏ quýt xanh 10g, hương phụ 10g, sắc uống.