Nhưng để đưa được những khẩu pháo ấy vào mặt trận Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã phải trải qua vô vàn khó khăn. Phóng viên VOV khu vực Tây Bắc có bài viết qua lời kể của Cựu chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư, tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), thực dân Pháp luôn tự tin cho rằng mình có một lực lượng quân sự vô cùng hùng mạnh, với tổng quân lính 16.000 người, được trang bị nhiều vũ khí hạng nặng như: pháo 155mm, súng cối 120mm, cùng 1 đại đội xe tăng 18 tấn...
Ngoài ra, với sự yểm trợ của lực lượng không quân, với 227 chiếc máy bay ném bom, tiêm kích, 101 máy bay vận tải trên toàn Đông Dương, thực dân Pháp xác định biến chiến trường Điện Biên Phủ thành chiếc “cối xay thịt” đối với bộ đội Việt Nam.
Tuy nhiên, việc xuất hiện pháo cao xạ 37mm (pháo phòng không không quân) tại lòng chảo Điện Biên Phủ là điều bắt ngờ đối với chúng, bởi không chỉ bảo vệ bầu trời, yểm hộ bộ binh chiến đấu, những khẩu pháo này còn góp phần chặn đứng việc chi viện bằng đường hàng không cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ, khiến chúng hoang mang, lúng túng; để từ đó, bộ đội ta tiến lên giành thắng lợi, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) ngoài 9 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn sơn pháo 75mm, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105mm và 4 đại đội súng cối 120mm, quân đội nhân dân Việt Nam còn được trang bị 1 trung đoàn pháo cao xạ 37mm với 24 khẩu pháo thuộc Trung đoàn pháo cao xạ 367, đơn vị tiền thân của Binh chủng Phòng không không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay.
Nhớ lại thời điểm đưa pháo vào trận địa, cựu chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư, tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367 cho biết: "Khi vào chiến dịch, đơn vị chúng tôi vào đầu tiên, từ đầu tháng 1/1954, bắt đầu từ vùng Tuyên Quang lên đến Nà Nhạn, Điện Biên là mất 17 ngày đêm. Trong khi khẩu pháo nặng 2,4 tấn cùng nhiều phụ kiện như con xe, đạn dược, khí tài khác rất nặng nề. Thực dân Pháp oanh tạc đánh phá cầu đường suốt ngày làm cho việc hành quân rất khó khăn."
Vừa mới ra đời, Trung đoàn pháo cao xạ 367 đã được điều động tham gia chiến đấu ở Điện Biên Phủ, góp phần quan trọng trong việc khống chế hoạt động của máy bay địch, cho đến đoạn cuối của chiến dịch đã cắt đứt hoàn toàn cầu hàng không – con đường tăng viện, tiếp tế duy nhất của quân đội viễn chinh Pháp. Từ ngày 27/3/1954, sân bay Mường Thanh đã bị tê liệt không còn một chiếc máy bay nào của địch còn lên xuống được. 56 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, trung đoàn pháo cao xạ 367 đã bắn rơi 52 máy bay, bắn bị thương 117 chiếc khác, trở thành nỗi khiếp đảm của quân Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ.
Cựu chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư, tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367 cho biết: Tiểu đoàn 394 bắt đầu kéo pháo từ Nà Nhạn qua dãy núi Tha Phu Sông cao 1.150 mét so với mực nước biển, trên tuyến đường khoảng 12km dốc cao lên xuống liên tục. Sau khi kéo vào các eo cánh đồng của các bản: Na Hy, Na Tâu, bản Tâu, bản Mển (gần sát đồi Độc Lập) thì lập trận địa ở đó, trong lúc ấy địch vẫn còn cứ điểm chưa đánh ngay trên đầu. Đây cũng là trận địa cuối cùng của 3 đợt kéo pháo sau 2 lần phải kéo pháo vào rồi kéo pháo ra theo phương châm đánh chắc, tiến chắc của Bộ chỉ huy chiến dịch.
Nhiệm vụ của tiểu đoàn 394 khi đó là khống chế vùng trời phía Tây, kéo dài hơn 5km từ Độc Lập xuống tận khu vực sân bay Hồng Cúm tiêu diệt máy bay, không cho máy bay oanh tạc và thả dù tiếp tế cho quân lính của Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ. Cùng với tiểu đoàn 383, trung đoàn pháo cao xạ 367 trấn giữ ở vùng trời phía Đông, tiểu đoàn 394 đã tạo thành thế gọng kìm ôm lấy lòng chảo, khống chế toàn bộ vùng trời, bảo vệ cho bộ binh dưới mặt đất an tâm chiến đấu.
Ông Phạm Đức Cư nói: "Chúng tôi kéo được pháo vào rải trận địa sát đồi Độc Lập mà cứ điểm này lúc ấy quân Pháp vẫn đang chiếm giữ nhưng cũng không hề hay biết. Chúng tôi chiếm lĩnh trận địa cách có 300m thôi. Chúng tôi kéo ban đêm không có một tý bóng đèn nào, không có một tiếng động nào trong khi khẩu pháo nặng như thế. Chiếm lĩnh trận địa xong rồi, trong ngày 25/1/1954 chúng tôi lại nhận được lệnh kéo pháo ra vị trí cũ để thay đổi phương châm tác chiến “Đánh nhanh, thắng nhanh sang Đánh chắc tiến chắc”. Tất cả anh em lúc bấy giờ sức khỏe không còn nhưng dù thế nào cũng phải kiên quyết chấp hành".
Chính trong lần kéo pháo ra này, chiến sỹ pháo binh Tô Vĩnh Diện đã dũng cảm lấy thân mình chèn pháo, cứu không để pháo bị rơi xuống vực tại dốc Chuối.
Nhờ phối hợp chặt chẽ với các binh chủng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, pháo cao xạ của ta đã anh dũng chiến đấu và lập công xuất sắc. Sáng ngày 14/4/1954, đại đội 815 đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay đầu tiên của Pháp. 5 ngày tiếp theo, Trung đoàn 367 tiếp tục bắn rơi 14 máy bay địch, bắn bị thương 25 chiếc khác. Kết thúc chiến dịch, bộ đội phòng không của ta đã bắn rơi tổng cộng 62 máy bay, bắn hỏng 117 chiếc khác, tạo điều kiện cho các binh chủng, nhất là pháo binh đối đất, công binh và bộ binh ở các tuyến hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu.
Cựu chiến sĩ Điện Biên Phạm Đức Cư, tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367 kể lại: "Chúng tôi khống chế vùng trời Điện Biên này hai bên trở thành một lưới lửa phòng không đan dầy cho nên là khi đánh Him Lam sáng sớm ngày 13/3/1954, quân Pháp huy động các lực lượng không quân ồ ạt đánh phá nhưng khi chúng tôi được lệnh phát hỏa thì quân Pháp mới biết Việt Minh đã có pháo cao xạ và vô cùng bất ngờ."
Huyền thoại về pháo cao xạ đã trở thành nỗi khiếp đảm của quân Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Những câu chuyện vẫn còn nguyên vẹn giá trị lịch sử sừng sững với bức tượng đài kéo pháo vào trận địa pháo đặt tại xã Nà Nhạn, thành phố Điện Biên Phủ là dấu tích cho thấy ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ trong công cuộc đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.