Bạn đọc Trần Phi Yến (ngụ quận Bình Thạnh, TP HCM) hỏi: Mấy ngày nay tôi lên mạng thấy chị kia tố một chị trẻ đẹp khác giật chồng mình, chị nêu đích danh tên tuổi tình địch nhưng không có bằng chứng thuyết phục.
Vậy nếu chứng cứ yếu mà tố người ta như vậy có bị vi phạm pháp luật không? Nếu có bằng chứng thì nên tố giác ở đâu?
Vấn đề này luật sư Lưu Tấn Anh Toàn (Giám đốc Công ty Luật Lưu Vũ) trả lời như sau:
Nếu một người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ thì bị phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng theo quy định tại Điều 59 Nghị định 82/2020.
Nghiêm trọng hơn hành vi nêu trên có thể bị xử lý hình sự theo Điều 182 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về tội 'Vi phạm chế độ một vợ, một chồng" nếu làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Theo đó, người vi phạm có thể bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm.
Đặc biệt, trong trường hợp làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; hoặc đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Để hiểu rõ thế nào là chung sống như vợ chồng thì tại việc chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng, quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định.
Đồng thời, Thông tư số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC cũng nêu rõ: Chung sống như vợ chồng là việc chung sống một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Do đó, khi người chồng có những hành vi nêu trên thì tùy từng trường hợp, người vợ có thể tố cáo chồng ngoại tình đến UBND cấp xã, Phòng tư pháp cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp huyện, Cơ quan cảnh sát điều tra cấp có thẩm quyền,…
Tuy nhiên, bạn cần lưu ý khi tố cáo "tình địch" phải có bằng chứng và không bịa đặt hoặc không loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Bạn cũng không bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Vì những hành vi đó có thể bị coi là bịa đặt, vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội "Vu khống".