Giáo sư Ohno, người có hơn 20 năm gắn bó với Việt Nam và có nhiều nghiên cứu về các vấn đề kinh tế ở Việt Nam, nói: “Ngày nay, sau một vài năm đạt mức thu nhập trung bình thấp, bẫy thu nhập trung bình không còn là một nguy cơ xa xôi, mà đã trở thành thực tế ở Việt Nam”.
Nhận xét của giáo sư Ohno được đưa ra trước nhiều học giả Việt Nam tại hội thảo “Khởi tạo động lực tăng trưởng mới: Tăng cường liên kết doanh nghiệp FDI – nội địa” do trường Đại học kinh tế Quốc dân, và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngày 26-3 tại Hà Nội.
Giáo sư nhớ lại, các thảo luận về bẫy thu nhập trung bình đã được khởi động ở Việt Nam năm 2008, khi quốc gia đạt mức thu nhập trung bình đầu người 1.070 đô la Mỹ, nhằm cảnh báo cho các doanh nghiệp và quan chức “đang tự mãn” với mức tăng trưởng cao trong quá khứ.
Tuy nhiên, các cảnh báo đó đã không mang lại nhiều tác dụng. “Đã có nhiều bằng chứng cho thấy đất nước đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, ông nói.
Theo giáo sư Ohno, có 5 triệu chứng cho thấy Việt Nam đang mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Thứ nhất, tăng trưởng chậm lại. Ông phân tích, sau khi khắc phục khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2000-2005. Lúc đó, tinh thần của người tiêu dùng và nhà kinh doanh rất cao, và Chính phủ tỏ ra đã hài lòng.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng này được thúc đẩy chủ yếu bằng bong bóng tại các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không phải là tăng năng suất lao động.
Sau năm 2006, khi tăng trưởng đi xuống với nhiều biến động, tâm trạng toàn xã hội trở nên ảm đạm. Tăng trưởng giảm xuống còn 5-6%, và đất nước trải qua một giai đoạn với bất động sản trầm lắng, lạm phát, nợ xấu.
Ông nhận định ở một nền kinh tế tương đối trẻ với tiềm năng lớn cho phát triển thì tăng trưởng dưới 5-6% cần được xem như một cuộc khủng hoảng xã hội.
Theo giáo sư, năng suất sản xuất mờ nhạt là biểu hiện rõ ràng thứ hai chứng tỏ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Ông dẫn ra nhiều số liệu cho thấy, hệ số ICOR tăng (hệ số sử dụng vốn, ICOR cao nghĩa là đồng vốn bỏ ra lớn nhưng hiệu quả không cao) và sự đóng góp của TFP (chỉ tiêu đo lường năng suất của đồng thời cả “lao động” và “vốn” cho nền kinh tế) vào tăng trưởng giảm, trong khi nguồn vốn đầu tư tăng cao; và khẳng định: “Đây là dấu hiệu rõ ràng của tăng trưởng dựa trên đầu tư với hiệu quả sử dụng vốn thấp”.
Mặt khác, theo giáo sư, trong những năm gần đây, tăng lương tại Việt Nam đã lớn hơn nhiều so với mức tăng năng suất lao động, làm chi phí sản xuất trở nên đắt đỏ hơn.
Từ năm 2009-2012, năng suất lao động tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 3,2% cho toàn bộ nền kinh tế, và 5,1% cho khu vực sản xuất. Trong khi đó, tiền lương danh nghĩa tăng với tỷ lệ trung bình 25,9% năm cho toàn bộ nền kinh tế, và 23,5% cho sản xuất.
Từ những dữ kiện trên (của Quốc hội Việt Nam), giáo sư Ohno cho rằng khả năng cạnh tranh về chi phí bị mất đi với tỷ lệ hàng năm 22,7% cho toàn bộ nền kinh tế, và 18,3% cho sản xuất.
Sự mất giá của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ trong giai đoạn trên với tỷ lệ 5,5% mỗi năm là quá nhỏ để bù đắp cho tốc độ mất khả năng cạnh tranh của nền kinh tế mỗi năm là 22,7%.
Ngoài những dấu hiệu trên, theo giáo sư Ohno, thiếu hụt dịch chuyển cơ cấu, năng lực cạnh tranh trong bảng xếp hạng không có dấu hiệu tăng, và xuất hiện các vấn đề do tăng trưởng gây ra cũng là các bằng chứng hiển nhiên để khẳng định Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Bài phát biểu của giáo sư Ohno đã không nhận được sự phản biện nào từ các học giả Việt Nam tại hội thảo.
Phó hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế Quốc dân Trần Thọ Đạt nhận xét, dư địa cho tăng trưởng theo chiều rộng của mô hình kinh tế Việt Nam không còn, do vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, Việt Nam cần tạo ra động lực mới cho tăng trưởng.
Nhưng đây là điều khó khăn. Ông Đạt băn khoăn: “Những động lực mới cho tăng trưởng là gì? Làm thế nào để tạo ra động lực này?”.