Sau khi Tổng thống Barack Obama tuyên bố Mỹ sẽ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhiều chuyên gia đánh giá, quyết định này có thể tác động tới cán cân quân sự trong khu vực và đặc biệt là ở Biển Đông.
Trong bài viết trên tạp chí Diplomat, chuyên gia Franz-Stefan Gady đã phân tích tính thực tế của nhận định trên.
Vũ khí Mỹ tác động từ từ
Ông Gady cho biết, Việt Nam hiện quan tâm đến một số loại khí tài Mỹ như máy bay chiến đấu F-16 A/B, máy bay tuần tra biển P-3C Orion được tân trang với ngư lôi đi kèm.
Bên cạnh đó là các máy bay không người lái (UAV) dùng để giám sát lãnh hải và trinh sát khu vực rộng lớn hơn như Biển Đông.
Ngoài ra, đã có một số cuộc thảo luận về khả năng cung cấp các loại radar, thiết bị trinh sát của Mỹ và hệ thống giúp Việt Nam tăng cường khả năng tác chiến điện tử.
Máy bay tuần tra săn ngầm P-3C Orion
Trước mắt, các thương vụ vũ khí giữa Mỹ và Việt Nam sẽ được tiến hành thông qua chương trình bán trang bị quốc phòng dư thừa (EDA) của Lầu Năm Góc, trong đó, quân đội Mỹ nhượng lại những khí tài quân sự đã qua sử dụng cho các quốc gia đối tác với mức giá ưu đãi.
Trước đó, chính phủ Mỹ đã hỗ trợ 18 triệu USD để Việt Nam mua 6 tàu tuần tra Metal Shark Defiant 75 trang bị cho lực lượng Cảnh sát biển.
Theo chuyên gia Gady, do vẫn còn một số rào cản nhất định nên nếu Hà Nội mua vũ khí Mỹ thì tác động của việc này đối với năng lực chiến đấu của Quân đội Việt Nam sẽ ở mức từ từ, dàn trải trong nhiều năm, chứ không đột ngột.
Đầu tiên là vì Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng cơ sở hạ tầng hỗ trợ cần thiết cho máy bay Mỹ, trong đó bao gồm cơ sở bảo dưỡng, mặc dù các chương trình nâng cấp lớn vẫn sẽ phải tiến hành tại Mỹ.
Ngoài ra, công tác huấn luyện phi công, nhân viên mặt đất, nhân viên kỹ thuật chuyên cho các máy bay và hệ thống vũ khí mới sẽ đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của các cố vấn và huấn luyện viên Mỹ ngay tại Việt Nam.
Tất cả những yêu cầu này không thể thực hiện "trong một đêm" và Việt Nam cần có được cam kết hỗ trợ của Mỹ trong nhiều năm.
Hiện nay, trong biên chế quân đội Việt Nam phần lớn là vũ khí do Liên Xô/Nga chế tạo.
Ông Gady nhận định, mặc dù sự hiện diện của vũ khí Mỹ trong khu vực chắc chắn sẽ có tác động nhưng vẫn phải chờ xem nó sẽ tăng cường năng lực răn đe của Việt Nam tới mức độ nào.
Điều này phụ thuộc phần lớn vào 2 yếu tố: Một là khả năng làm chủ hệ thống vũ khí mới và hai là năng lực của Không quân Việt Nam trong việc phối hợp khí tài Mỹ với các thiết bị sẵn có trong biên chế, chủ yếu gồm những hệ thống vũ khí cổ từ thời Liên Xô hoặc do Nga chế tạo.
Theo ông Gady, các khí tài như máy bay tuần tra biển P-3C Orion được tân trang với ngư lôi đi kèm sẽ giúp gia tăng đáng kể năng lực răn đe của Không quân Việt Nam trong khía cạnh này.
Đặc biệt, nó sẽ nâng cao năng lực tác chiến chống ngầm và chống tàu mặt nước của quân đội Việt Nam, bằng cách bổ sung sức mạnh cho hạm đội gồm 6 tàu ngầm diesel-điện đề án 636 lớp Kilo mà Việt Nam mua từ Nga (cho tới nay, 5 trong số 6 tàu đã được chuyển giao).
Hà Nội còn đặt mua các tên lửa hành trình chống tàu và tấn công mặt đất, trong đó có tên lửa hành trình siêu thanh 3M-14E Klub, giúp tăng cường năng lực răn đe mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang nâng cấp các hệ thống phòng thủ, như mua từ Nga tổ hợp tên lửa bờ K-300P Bastion, hệ thống phòng không S-300PMU-2 và nâng cấp các hệ thống radar giám sát bờ biển.
Việt Nam hiện vận hành 36 chiếc Su-30MK2, loại máy bay chiến đấu được tối ưu hóa để đảm nhiệm các chức năng hỗ trợ tác chiến trên biển và trang bị tên lửa chống tàu Kh-31 (NATO định danh là AS-17 Krypton).
Không quân Việt Nam còn được cho là định mua 1 phi đội máy bay chiến đấu đa nhiệm 2 động cơ Su-35 của Nga. Theo chuyên gia Gady, có lẽ Su-35 phù hợp để tuần tra biển hơn so với máy bay chiến đấu 1 động cơ F-16 của Mỹ.
Chuyên gia Gady cho rằng máy bay chiến đấu Su-35 của Nga thích hợp để tuần tra biển hơn so với tiêm kích F-16 của Mỹ.
Thay đổi cán cân sức mạnh ở Biển Đông?
Đến đây, một câu hỏi được đặt ra là: Như vậy, liệu thiết bị quân sự Mỹ có thể thay đổi cán cân sức mạnh quân sự ở Biển Đông hay không?
Ông Gady cho hay: Như đã nêu ở trên, điều này sẽ phụ thuộc vào mức độ huấn luyện hiệu quả và năng lực tích hợp các hệ thống vũ khí mới với cấu trúc quân sự hiện tại của Việt Nam.
Những liệt kê ở trên cho thấy Nga vẫn là đối tác lâu năm quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật-quân sự song phương, mặc dù mối quan hệ này không phải lúc nào cũng trơn tru.
Theo ông Gady, so với các hệ thống của Mỹ, khí tài mà Nga cung cấp cho Việt Nam có khả năng hơn và ít điều kiện ràng buộc đi kèm hơn so với Washington.
Việt Nam cũng có nhiều kinh nghiệm vận hành các thiết bị do Nga sản xuất trong nhiều thập kỷ qua, trong khi chưa hề có kinh nghiệm với vũ khí Mỹ.
Về huấn luyện-đào tạo, Không quân Việt Nam đã gặp phải những hạn chế trong quá khứ và mới đang chậm rãi tiến hành các bài tập toàn diện, đa dạng hơn như thực hành các hoạt động vũ trang kết hợp, phối hợp các hệ thống trên không, trên bộ và trên biển trong chiến đấu.
Hoạt động trao đổi huấn luyện quân sự với nước khác đã được tăng cường. Các thủy thủ tàu ngầm Việt Nam hiện đang được đào tạo chiến thuật và học thuyết tác chiến ngầm tại trung tâm tàu ngầm INS Satavahana của Ấn Độ.
Tuy nhiên, một số thiếu sót vẫn còn tồn tại, như trong công tác huấn luyện phi công.
Quân cảng ở Vizag, Visakhapatnam (đông nam Ấn Độ), nơi có trường huấn luyện tàu ngầm INS Satavahana đang đào tạo thủy thủ tàu ngầm Việt Nam.
Theo ông Gady, mặc dù có khả năng Việt Nam sẽ tìm ra phương thức để tích hợp hiệu quả các hệ thống Mỹ vào cấu trúc lực lượng với khí tài Nga là chủ lực. Nhưng, một ví dụ điển hình như Malaysia – hiện vận hành cả vũ khí Nga và NATO – đã cho thấy về lâu dài, việc này rất kém hiệu quả và đắt đỏ.
Ngoài ra, vẫn phải chờ xem Việt Nam có thể phát triển học thuyết và chiến thuật mới để tích hợp toàn bộ các hệ thống vũ khí mới vào chiến lược "chống can thiệp" của mình hay không.
Nói chung, tích hợp thành công và làm chủ được các vũ khí mới của Mỹ chắc chắn sẽ giúp tăng cường năng lực tác chiến của Không quân Việt Nam, từ đó tác động tới hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Song, theo chuyên gia Gady, việc bổ sung máy bay chiến đấu F-16, máy bay tuần thám P-3C Orion, UAV và các hệ thống tình báo-giám sát-trinh sát (ISR) của Mỹ về cơ bản sẽ không thay đổi cán cân quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ông Gady cho rằng chỉ riêng sự hiện diện của tàu ngầm Việt Nam ở Biển Đông cũng đủ để răn đe các hành động hung hăng của Trung Quốc trong tương lai gần.
Do Trung Quốc không dại gì châm ngòi một cuộc chiến tranh quy mô toàn diện nên ông Gady cho rằng, chỉ riêng sự hiện diện của tàu ngầm Việt Nam ở Biển Đông, dù có nằm trong mạng lưới tấn công hay có kết nối với các hệ thống khác hay không, cũng có thể đủ để ngăn chặn các hành động hung hăng của Trung Quốc trên biển trong tương lai gần.
*** Bài viết thể hiện quan điểm riêng của chuyên gia Franz-Stefan Gady