Cụ thể, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam hiện là 463 USD/tấn (giá FOB, giá xuất tại cảng), tăng hơn 16% so với cùng kỳ 2022. Giá này tương đương gạo Thái Lan và cao hơn Ấn Độ, Pakistan 20 - 23 USD/tấn.
Báo cáo Chính phủ, Bộ Công Thương cho biết, trong nhiều tháng, từ tháng 8/2022, giá gạo 5% tấm xuất khẩu luôn ở mức cao nhất thế giới, vượt Thái Lan 15 - 27 USD và Ấn Độ 40 - 50 USD/tấn.
Đặc biệt, đà tăng giá xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn duy trì trong hai tháng đầu năm 2023, với mức bình quân hơn 519 USD/tấn. Vì thế sản lượng xuất khẩu giảm trên 20% trong tháng đầu năm nhưng vẫn tăng xấp xỉ 7% về giá.
Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam hiện là 463 USD/tấn (giá FOB, giá xuất tại cảng), tăng hơn 16% so với cùng kỳ 2022, vượt Thái Lan, Ấn Độ.
Cũng theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2022 sản lượng gạo xuất khẩu đạt 7,2 triệu tấn - cao nhất trong vài năm gần đây và vượt mục tiêu đề ra gần 1 triệu tấn; Với kim ngạch xuất khẩu đạt 3,49 tỷ USD, mức cao nhất kể từ năm 2013 trở lại đây.
Như vậy, giá gạo Việt Nam xuất khẩu liên tục vượt qua các đối thủ cạnh tranh Thái Lan, Ấn Độ để vươn lên đứng đầu thế giới, khẳng định lại vị thế “hạt ngọc” Việt tại “chợ toàn cầu”.
Cũng theo Bộ Công Thương dự báo xuất khẩu gạo năm nay vẫn thuận lợi (khoảng 6,5 - 7 triệu tấn), do sự quay trở lại của các thị trường như Indonesia, Bangladesh. Trung Quốc mở cửa lại sau dịch khiến nhu cầu nhập khẩu tăng. Gạo trắng chiếm 45% trong cơ cấu xuất khẩu, còn lại là gạo thơm, gạo nếp, gạo hữu cơ, gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng.
Tuy vậy, Bộ này cũng chỉ ra những thách thức tiềm ẩn cho xuất khẩu gạo năm nay. Cụ thể như, các thương nhân còn hạn chế trong chiến lược đa dạng hóa thị trường. Thị trường xuất khẩu gạo vẫn có dấu hiệu thiếu bền vững, phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống như Trung Quốc, Philippines (thị trường nhập lớn nhất, chiếm hơn 45% tổng gạo xuất khẩu của Việt Nam).
Ngoài ra, gạo xuất khẩu Việt Nam cũng gặp cạnh tranh từ các nguồn cung giá rẻ khác như Ấn Độ, Pakistan.
Cùng đó, chi phí sản xuất tăng do giá vật tư nông nghiệp đầu vào leo thang, đẩy giá thành thu mua thóc, gạo hàng hóa lên cao. Thực tế này gây áp lực cho các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo, trong khi giá chào xuất khẩu tăng chưa nhiều. Đồng thời, giá cước vận tải quốc tế giảm so với thời điểm 2021 nhưng vẫn ở mức cao, nhất là từ khi xung đột Nga – Ukraine xảy ra.
Do đó, Bộ Công Thương cho biết sẽ trao đổi để EU bổ sung gạo thơm vào danh mục xuất sang thị trường này; Đa dạng và mở rộng thị trường qua các kênh xúc tiến thương mại.
Bộ này cũng đề nghị phía ngân hàng linh hoạt, mở thêm hình thức tín chấp, thay vì thế chấp tài sản, với các thương nhân xuất khẩu uy tín để họ có thêm vốn thu mua lúa, gạo chế biến hàng xuất khẩu vào thời điểm chính vụ thu hoạch.
Được biết, năm 2023, lượng thóc dành để xuất khẩu khoảng 13,2 triệu tấn, tương đương 6,6 triệu tấn gạo. Theo kế hoạch nửa đầu năm, lượng gạo xuất đi là 4,12 triệu tấn, nhưng tháng 1 chỉ xuất được gần 0,36 triệu tấn. Tức còn hơn 3,76 triệu tấn cần tiêu thụ trong 5 tháng.