Những tàn tích hóa thạch của Paraceratherium tiết lộ nó là một loài động vật có kích thước gần như không thể tưởng tượng được. Chỉ riêng hộp sọ của nó đã dài tới hơn 1,3 mét (4,3 feet). Thay vì mang sừng như tê giác hiện đại, Paraceratherium có trán hình vòm và đường rạch mũi dài đáng kể, cho thấy nó có môi trên có khả năng cầm nắm hoặc cái môi này sẽ sở hữu cơ bắp giống như heo vòi.
Nói về chế độ ăn uống, răng của Paraceratherium có thân răng thấp nhưng cực kỳ chắc khỏe – một số răng hàm có kích thước bằng nắm tay con người! Điều này chỉ ra rằng chúng thường tước lá và cành cây, nó sẽ cần phải tiêu thụ một lượng lớn thực vật để duy trì khối lượng khổng lồ của mình.
Ước tính kích thước của loài động vật này khá khác nhau trong những nghiên cứu khoa học, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng Paraceratherium cao ít nhất 4,8 mét (15,7 feet) tính đến vai – cao hơn nhiều tòa nhà một tầng! Những chiếc chân giống như cây cột của nó có các bàn chân nghiêng, mỗi bàn chân dài tới nửa mét (20 inch). Đáng chú ý, xương các chi của nó cho thấy Paraceratherium có nguồn gốc từ tổ tiên nhỏ hơn và chạy nhanh hơn nhiều ở những loài tê giác thời kỳ đầu.
Gần đây, các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện hóa thạch của một loài Paraceratherium mới mà họ đặt tên là Paraceratherium linxiaense hay “Tê giác khổng lồ Linxia” ở phía tây bắc Trung Quốc, đại diện cho loài động vật có vú trên cạn lớn nhất từng tồn tại trên Trái Đất.
Hóa thạch hộp sọ và hàm hoàn chỉnh được nhóm nghiên cứu Trung Quốc-Mỹ phân tích cho thấy loài tê giác khổng lồ này nặng khoảng 24 tấn, chiều cao tới vai là hơn 4,9 mét (16 feet), có cái đầu dài hơn một mét (hơn 3 feet) , và cơ thể dài gần 8 mét (26 feet) – bằng kích thước của 5-6 con voi cộng lại.
Tê giác khổng lồ Linxia sống cách đây khoảng 31 triệu năm ở vùng cao nguyên phía bắc Tây Tạng trước khi di cư về phía tây nam, với hóa thạch cũng được tìm thấy ở Mông Cổ, Kazakhstan, Pakistan và Đông Âu trong kỷ nguyên Oligocene.
Vào thời đó, những kẻ săn mồi trên cạn lớn nhất thường có kích thước không lớn hơn những con sói hiện đại, có nghĩa là Paraceratherium trưởng thành hầu như không có mối đe dọa nào ngoại trừ những cuộc chạm trán cực kỳ xui xẻo với những con cá sấu lớn. Tuy nhiên, những con non vẫn có thể dễ bị săn. Với kích thước khổng lồ, tuổi thọ dài và phạm vi môi trường sống không hạn chế, Paraceratherium được coi là loài đứng vững ở vị trí đầu chuỗi thức ăn trong Thế Oligocene.
Vậy làm thế nào mà những loài siêu thú này cuối cùng lại tuyệt chủng sau khi phát triển mạnh mẽ trong khoảng 11 triệu năm?
Nguyên nhân chính xác vẫn còn là một bí ẩn cổ sinh vật học. Có lẽ sự cạnh tranh từ các loài động vật có vòi mới xuất hiện như loài gomphotheres đã góp phần làm thay đổi môi trường sống và nguồn thức ăn của Paraceratherium.
Có lẽ sự phát triển của những loài săn mồi hiệu quả hơn trong thế Miocene sớm, cùng với khí hậu mát mẻ và những thay đổi của thảm thực vật, cuối cùng đã khiến loài này tuyệt chủng. Một điều chắc chắn là sự biến mất của Paraceratherium đã đánh dấu sự kết thúc một kỷ nguyên của các loài động vật có vú trên cạn cực kỳ to lớn.
Với những phát hiện hóa thạch mới vẫn đang được khai quật cẩn thận, sự hiểu biết của chúng ta về Paraceratherium tiếp tục phát triển và phát triển. Vẫn còn vô số câu hỏi vẫn còn đó về hành vi, sinh học và sự diệt vong cuối cùng của loài vật này. Tuy nhiên, Paraceratherium chắc chắn đang nắm giữ đai vô địch hạng nặng ở vòng đấu động vật có vú cỡ lớn. Nhưng ai biết được? Có thể một cuộc khai quật trong tương lai sẽ tìm ra một đối thủ thậm chí còn lớn hơn!
Tham khảo: Earthlymission