Lịch sử phong kiến Trung Quốc khép lại hàng ngàn năm tồn tại dưới thời nhà Thanh, vào những năm vị vua cuối cùng của Thanh đại này là Phổ Nghi sở hữu “hư danh” cai quản triều đình.
Sinh năm 1906, Phổ Nghi là cháu trai của vua Quang Tự và là con đẻ của Thuần Thân vương Tải Phong. Tháng 11/1908, Hoàng đế Quang Tự và Từ Hy Thái hậu lần lượt qua đời chỉ cách nhau 1 ngày, Phổ Nghi khi đó chưa tròn 3 tuổi được đưa lên kế thừa ngôi báu.
Một năm sau đó, ông vua “miệng còn hơi sữa” được đổi niên hiệu thành Tuyên Thống, mọi chuyện lớn nhỏ trong thiên hạ đều do cha đẻ là Thuần Thân vương điều hành.
Hoàng đế Phổ Nghi khi chưa bị lật đổ.
Chương hồi "chỉ trầm không thăng" của Hoàng đế Phổ Nghi
Tháng 10/1911, khởi nghĩa Vũ Xương sau khi bùng phát đã tác động đến các địa phương, làn sóng cách mạng nổ ra như vũ bão trên toàn Trung Quốc và chỉ một năm sau đó, triều đình nhà Thanh buộc phải tuyên bố Phổ Nghi thoái vị.
Vương triều Mãn Thanh thống trị Trung Hoa trong vòng hơn 260 năm chính thức bị lật đổ, kết thúc hơn 2000 năm chế độ phong kiến tại quốc gia này.
Sau cách mạng Tân Hợi, theo “điều luật ưu đãi” do Viên Thế Khải làm môi giới trung gian với Triều đình ở Bắc Kinh và những người làm cách mạng, Phổ Nghi dù thoái vị vẫn được giữ lại tước vị và được chính quyền Dân quốc đối xử như một ông vua ngoại quốc.
Ngoài điện Thái Hòa, điện Trung Hòa và điện Bảo Hòa, Phổ Nghi và triều đình vẫn được phép sử dụng những nơi còn lại trong Cố Cung để… sống tạm.
Đến năm 1917, được quân phiệt Trương Huân và một nhóm người khác hỗ trợ, Phổ Nghi đã tuyên bố phục vị. Tuy nhiên, quãng thời gian này chỉ kéo dài vỏn vẹn 12 ngày do làn sóng phản đối diễn ra khắp Trung Hoa.
7 năm sau đó, Phổ Nghi bị trục xuất khỏi Tử Cấm Thành bởi một quân phiệt có tên Phùng Ngọc Tường.
Sau sự cố này, vào năm 1925, vị vua cuối cùng của Trung Hoa tiếp tục tìm đến Thiên Tân với ý đồ gây khôi phục vị thế của mình.
Đến năm 1931, nhờ quân Nhật Bản chống lưng, Phổ Nghi dời đến Đông Bắc và được dựng lên làm Hoàng đế của Mãn Châu quốc - một ngôi vị bị nhiều nhà sử học coi là nhà bù nhìn của Đế quốc Nhật Bản.
Phổ Nghi chụp ảnh cùng các anh em trai và công chúa Uyển Dung ở Trường Xuân, Đông Bắc Trung Quốc.
Tuy nhiên, “ngai vàng ảo” này của Phổ Nghi cũng chỉ duy trì được 12 năm cho đến khi quân Nhật Bản đầu hàng đồng minh.
Ngày 17/8/1945, khi ông đang định chạy sang Nhật thì bị quân Liên Xô bắt giữ và phải 5 năm sau đó, nhân vật lịch sử này mới được trao trả cho chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Trải qua 10 năm trong Trại cải tạo Phủ Thuận, tỉnh Liêu Ninh cho đến khi được tuyên bố là đã được cải tạo xong, năm 1959, Phổ Nghi đến Bắc Kinh.
Nhờ có sự cho phép đặc biệt của Chủ tịch Mao Trạch Đông, ông vua hết thời này đã cùng một người em gái sống trong một căn hộ bình thường ở Bắc Kinh trong vòng 6 tháng trước khi bị chuyển đến một khách sạn do Chính phủ tài trợ.
Vào năm 1962, Phổ Nghi đã kết hôn với một y tá tên là Lý Thục Hiền và bắt đầu xây dựng một cuộc sống gia đình viên mãn.
Một người nước ngoài từng hỏi vị vua cuối cùng của Trung Quốc rằng: “Ông không cảm thấy tự hào khi trước đây đã từng làm hoàng đế sao”?
Và Phổ Nghi đã đáp lại rằng: “Hoàng đế ư, đây là danh hiệu mà tôi cho là đáng xấu hổ nhất. Điều khiến tôi cảm thấy tự hào là hôm nay tôi đã trở thành một công dân Trung Quốc”.
Tuy nhiên, cuộc sống mới của Phổ Nghi bắt đầu chưa lâu, ông được phát hiện mắc bệnh ung thư thận và qua đời vào ngày 17/10/1967, hưởng thọ 60 tuổi.
Là một Hoàng đế song vị vua này chưa một ngày nắm quyển lực trong tay. Sống trong một thời kỳ dài loạn lạc, Phổ Nghi cũng không thể phát huy được vai trò của bản thân trong thời cuộc rối ren.
Ông là vua của một triều đại bị diệt vong và bất chấp đạo lý dấn thân vào con đường phản quốc. Tuy nhiên sau cùng, con người này lại trở thành một tấm gương điển hình cho cái gọi là “cải tà quy chính”.
Đây chính là điều tốt đẹp và may mắn nhất mà vị vua cuối cùng của đất nước Trung Quốc giữ được cho mình trước khi về với tiên tổ của dòng họ được ghi dấu trong lịch sử Trung Hoa.