Nhắc tới đỉnh cao nhất của Bolero, không thể không nhắc tới Thanh Thúy – một huyền thoại từng được mệnh danh là Nữ hoàng Bolero.
Thanh Thúy sở hữu nhân cách sáng lòa, phẩm hạnh cao đẹp. Với bản tính "nhu mì, khiêm tốn, ngoan hiền và biết tự trọng", Thanh Thúy ít khi bon chen vào con đường danh vọng hay tranh đua với đồng nghiệp.
Thế nhưng, nhờ tài năng độc đáo, nhan sắc tuyệt trần và sự kì vĩ có một không hai của mình, cô đã sớm trở thành Danh ca Bolero nổi tiếng nhất. Không những vậy, cô còn đạt tới tầm phủ sóng lớn nhất của một đại ngôi sao.
Đương thời, Thanh Thúy là ca sĩ được phong tặng nhiều danh hiệu nhất và đi vào văn thơ nhiều nhất. Cô cũng là mỹ nhân khiến đàn ông phải si mê nhiều nhất. Trong đó, có hàng loạt nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ lớn.
Nhạc sĩ Nguyên Sa từng chia sẻ: "Thanh Thúy là nữ ca sĩ được ngợi ca nhiều nhất trong văn, trong thơ như thi sĩ Hoàng Trúc Ly, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Viên Linh, nhà văn Tuấn Huy….
Bởi vì Thanh Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, trong đó có những nhà văn, nhà thơ bén nhạy bắt được cảm xúc riêng tư mà diễn đạt cái khách quan mênh mông trong cái chủ quan, riêng lẽ sống thực và chân thành…".
Kĩ thuật độc đáo của tiếng hát lưỡng tính duy nhất
Như đã nói, Thanh Thúy là giọng nữ trầm (contralto) duy nhất ở Việt Nam từ trước tới nay, với các đặc trưng hiếm có như: tính lưỡng tính (hermaphrodite), hát được với man tone; giọng rất sâu, dày, nặng, tối, chắc khỏe, đậm tính thổ (đất) và rền như tiếng đại hồng chung; quãng hát thoải mái (tessitura) nằm trên âm khu trung, trầm.
Chất giọng này khác biệt hoàn toàn với những nữ trung trầm (mezzo alto) khác như Thanh Lam, Uyên Linh, Thu Phương, Khánh Ly, Hoàng Quyên, Hồ Ngọc Hà, Ngọc Anh…
Chính vì thế, cách hát và kĩ thuật được Thanh Thúy sử dụng cũng rất đặc trưng, riêng có, không giống với bất kì nữ ca sĩ nào.
Trong khi hầu hết các nữ ca sĩ Bolero khác thường hát bằng giả thanh, nasal voice (giọng mũi) thì Thanh Thúy chủ yếu hát bằng giọng ngực (chest voice). Thậm chí, nếu có hát pha thì tỷ lệ giọng ngực của cô vẫn rất cao (chesty).
Đây là thế mạnh riêng của giọng nữ trầm. Họ có thể hát thuần chest mà không sợ hại thanh quản, mất giọng như nữ cao và nữ trung. Không những vậy, khi hát bằng chest voice thuần, họ phát huy được âm sắc tự nhiên trong giọng hát của mình.
Thanh Thúy cũng vậy, nhờ hát thuần chest nên cô đẩy mạnh tối đa chất thổ (đất) trong giọng hát của mình, khiến nó trở nên tối, nặng, sâu thẳm và ma mị, liêu trai hơn bao giờ hết.
Nghe Thanh Thúy hát, người ta có cảm giác như đang nghe một thứ âm thanh huyền bí nào đó phát ra từ lòng đất, ôm trọn núi rừng, non nước của cả một thời chiến tranh, lửa đạn, với biết bao xương máu, ai oán, khóc than.
Thanh Thúy hát Kiếp nghèo
Cũng nhờ cách hát thuần chest này mà Thanh Thúy có thể giãi bày ca khúc một cách chậm rãi, đậm chất tự sự, như kể một câu chuyện hay tâm tình chân thành với người nghe.
Đây là điều khác hoàn toàn với đa số nữ ca sĩ Bolero ngày nay, vốn chỉ luyến láy, đong đưa theo giai điệu cho đẹp mà không diễn đạt được phần hồn sâu thẳm cùng những ẩn ức bên trong bài hát.
Thanh Thúy nhả chữ nào chắc chữ đó, nặng như chì và rền như sấm. Trong từng chữ đều in hằn sức nặng của thời gian, da thịt loài người. Cô chẳng cần phải nhấn nhá nhiều vì bản thân cách hát tự sự, chậm rãi này đã nhấn vào mọi chữ rồi.
Tiếng hát Thanh Thúy giống như tiếng lòng của đất mẹ, lúc nào cũng cuồn cuộn sóng ngầm trong tầng sâu thăm thẳm, chất chứa nhiều nỗi tâm sự ở tầm vóc thời đại. Có thể nói, đây là tiếng hát âm tính nhất trong các giọng nữ tại Việt Nam, khi nó vừa tối, vừa trầm, nhưng cũng không kém phần nữ tính.
Bằng việc hát thuần chest và phát huy lợi thế của giọng nữ trầm, Thanh Thúy có thể xuống được những note rất thấp như D3, C3 một cách thoải mái và thường xuyên. Cô hát quãng 3 dễ dàng như hát quãng 4 và có thể hát toàn bài trên quãng 3.
Không những vậy, Thanh Thúy còn có thể nhả chữ xuống hẳn B2, A2 theo đúng giai điệu, hòa âm mà không cần hạ thanh quản hay dùng tới vocal fry. Trong khi với nhiều nữ ca sĩ khác, để xuống được quãng 2 đã là không thể, chứ đừng nói tới việc nhả chữ một cách mượt mà.
Kỉ lục xuống thấp của Thanh Thúy là tới A2 trong màn trình diễn Hai chuyến tàu đêm. Ngoài Minh Hiếu, chưa thấy nữ ca sĩ nào tại Việt Nam có thể xuống tới note này.
Thanh Thúy hát Hai chuyến tàu đêm
Nhưng đáng nể hơn cả, note A2 đó được Thanh Thúy phát âm trên câu từ rất rõ chữ, đẹp và tự nhiên. Cô không phải lấy đà từ trước, cố ngân ra hay gồng mình để giữ lấy note. Để hát thấp như vậy trên tiết tấu nhanh mà không bị mờ hay chênh phô là cả một kì tích.
Với một giọng nữ trung hoặc nữ cao thông thường, nếu muốn belt giọng (cách hát toàn giọng với nhiều lực ở giọng ngực và giọng pha), họ sẽ phải đẩy lên quãng 4, quãng 5. Nếu hát thấp hơn, vị trí âm thanh sẽ bị đẩy xuống dưới và xuất hiện nhiều nếp gấp thanh quản, không thể giữ đủ lực, breath control để belt.
Các giọng nữ thường phải kéo tới G#4 trở lên mới có sức bật và khuếch đại âm lượng lớn, còn ở G#3 sẽ bị nhỏ lại hoặc dính âm hơi (airy voice).
Thanh Thúy thì hoàn toàn ngược lại. Cô có thể belt giọng dưới tận G3, G#3 với âm lượng lớn và độ bật cao, như tiếng đại hồng chung rền rĩ tỏa đi xa. Khi belt G3, Thanh Thúy có thể di chuyển vị trí âm thanh lên trên mà vẫn giữ nguyên cao độ, không thay đổi, không đẩy note lên cao hơn.
Thanh Thúy belt G3 mà cảm tưởng như đang hát G4. Điều này cho thấy, phần giọng ngực của Thanh Thúy rất khỏe và có vị trí âm thanh đặc biệt.
Vì là nữ trầm nên quãng cao của Thanh Thúy bị hạn chế. Cô lên cao nhất tới B4 (cho giọng thật) và hầu như không sử dụng mixed voice. Quãng belt thuận lợi của cô nằm ờ C4 tới G4, thấp hơn các giọng nữ khác khá nhiều.
Tuy nhiên, trong quãng belt này, giọng Thanh Thúy biến hóa rất ảo diệu, lúc nghe rất trầm, lúc lại lanh lảnh và tạo cho người nghe cảm giác cao vun vút, dù cao độ vẫn như vậy.
Để làm được điều này, Thanh Thúy đã phải luân chuyển linh hoạt giữa việc sử dụng full voice và messa voce (hát nửa giọng), rồi vắt treo lên theo tone nhạc, tạo hiệu ứng lúc dày lúc mảnh, lúc sáng lúc tối. Cô chuyển giọng liên tục trong một bài hát, từ trầm tới cao hơn rồi đổ lại đổ về trầm.
Thậm chí, ngay trên quãng trầm, Thanh Thúy cũng tạo được nhiều hiệu ứng, sắc thái khác nhau. Chẳng hạn, cùng ở note D3, nhưng Thanh Thúy có thể hát lúc nặng lúc nhẹ, lúc airy đậm chất xốp.
Đây là một trong những khả năng đặc biệt ở danh ca này, đúng như nhà văn Hồ Trường An từng nói: "Cô là một nhà ảo thuật âm thanh. Cô giỡn vọt âm thanh, bẻ vặn tiết điệu, bỏ đứt nền nếp chân truyền trong lối hát. Chính ở cách phá thể, ở những quái chiêu táo bạo đó cô thành công rực rỡ".
Chính vì thế, dù Thanh Thúy là một nữ trầm với đậm chất lưỡng tính, nhưng khi cô hát vẫn luôn có sự nữ tính.
Thanh Thúy cũng thường sử dụng airy voice (âm hơi) ở những đoạn nhả chữ hắt ra hay thủ thỉ tâm tình. Dù airy voice của cô không nhẹ nhàng, bay bổng, nhưng vẫn giữ được sự mượt mà, mềm mại và đong đầy cảm xúc.
Mỹ nhân có phong cách biểu diễn đặc biệt, khiến Trịnh Công Sơn mê đắm
Nhắc đến Thanh Thúy là nhớ về một mỹ nhân Bolero có lối trình diễn đặc biệt trên sân khấu, khiến ai cũng phải mê mẩn. Phong cách đó đã được giáo sư Nguyễn Văn Trung tả lại như sau:
"Thường một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ.
Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con người của mình.
Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý đến khán giả, không tự giới thiệu, đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm, mà không đưa mắt nhìn vào khán giả.
Lúc hát không làm một cử động nào, hai tay luôn luôn nắm lấy cây sắt của máy vi âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên lướt qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai.
Thanh Thúy không nhìn ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim…".
Từ lời bình của của giáo sư Trung, có thể thấy, Thanh Thúy thuộc hình mẫu ca sĩ giản dị và khép kín, không khoa trương, màu mè trên sân khấu, đúng nghĩa một danh ca theo lối truyền thống.
Đối với Thanh Thúy, ca hát là truyền tải thông điệp, cảm xúc của bài hát thông qua tiếng hát của mình, và cô sẽ làm tất cả để gói được vào đó, chứ không tính toán tới những cách thức biểu hiện khác bằng hình thể.
Thanh Thúy không giỏi diễn trên sân khấu, cô chỉ biết đứng một chỗ để hát, nhưng trong giọng hát ấy là cả một trời cảm xúc, văn hóa và trường biểu đạt khác.
Bởi vậy, Thanh Thúy chọn cho mình lối hát âm tính, rất hợp với tính cách và chất giọng nữ trầm của cô.
Dù sở hữu chất giọng nội lực, nhưng cô lại hát theo kiểu thu lại, cuốn vào sâu trong từng câu chữ, giống tầng sâu trong đất, để người nghe cảm nhận dần dần, chứ không bộc phát hết ra ngoài.
Lối hát này khiến Thanh Thúy càng trở nên liêu trai, ma mị hơn, và giúp cô truyền thải sâu sắc nỗi tâm sự, ẩn ức của cả một thế hệ, thời đại.
Giáo sư Trung cũng nói thêm: "Thái độ của Thanh Thúy là đi tới người khác không phải bằng cách cởi mở, đón tiếp, mời gọi với những cái nhìn, nụ cười cử chỉ mà bằng cách khép mình lại, thu mình vào bên trong, không xét đến người khác đang nhìn mình.
Thỉnh thoảng cô mỉm cười khi lời ý buồn cười, nhưng cũng như cười với mình thôi".
Sự đối lập giữa giọng hát nam tính, mạnh mẽ với thân hình nhỏ bé, mảnh mai, nhan sắc tuyệt trần và cách hát khép mình, e lệ đã khiến Thanh Thúy trở thành cực phẩm trong làng ca sĩ, khiến người đàn ông nào cũng say đắm.
Chính giọng hát trầm buồn, khắc khoải và phong cách trình diễn ấy đã mê hoặc Trịnh Công Sơn khi ông nghe cô hát tại phòng trà Mỹ Cảnh. Khi ấy, Thanh Thúy vì một nỗi u uất nào đó đã vừa hát vừa khóc. Những dòng nước mắt đó đã gây ám ảnh tới cố nhạc sĩ họ Trịnh, khiến ông trở về Huế rồi mà vẫn còn day dứt.
Ông nói: "Những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ".
Và từ đó, Trịnh Công Sơn đã viết nên ca khúc Ướt mi, dành riêng cho Thanh Thúy:
"Buồn ơi trong đêm thâu
Ôm ấp giùm ta nhé
Người em thương mưa ngâu
Hay khóc sầu nhân thế
Tình ta đêm về có ấm
từng cơn mưa em chưa"
Thanh Thúy hát Ướt mi
Trên thực tế, Thanh Thúy hát không rõ lời mà hay bị biến âm, giống Thanh Tuyền. Chẳng hạn /tình/ thành /từn/, /yêu/ thành /iu/, /tươi/ thành /tưi/, /ấm/ thành /ắm/, /ban/ thành /bang/…
Tuy nhiên, đây là lối hát do cô chọn lựa, để ra được chất riêng của dòng nhạc trữ tình quê hương Bolero và thổi rõ điệu hồn vùng miền vào đó.
Theo giáo sư Nguyễn Văn Trung, cách hát này của Thanh Thúy để "khán giả như thấy bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt một hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê, đồng ruộng, với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định…
Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn đó".
Thanh Thúy hát Bolero theo lối pha trộn với Rumba, nên không sử dụng nhiều luyến láy, ngân nga, nỉ non giống Thanh Tuyền, Hương Lan, Như Quỳnh… mà dứt khoát, rành mạch. Bởi vậy, nhiều khán giả ngày nay sẽ không quen với cách hát của cô.
Thế nhưng, Thanh Thúy vẫn đưa đẩy câu chữ rất nức nở và có những luyến láy cần thiết, khiến cô trở nên nữ tính, sâu đậm hơn, giống như lời giáo sư Trung từng nói:
"Có lẽ những khán giả thích Thanh Thúy là thích vì vậy, không phải giải thích như một thân xác, nhưng như một người đàn bà, một thiếu nữ Việt, một cô gái Huế qua những cái rất "đàn bà", rất "Việt Nam" và rất "Huế" của Thanh Thúy".
Chú thích thuật ngữ thanh nhạc:
- Note khá trầm: C2/C#2, D2/D#2, E2. F2/F#2, G2/G#2, A2/A#2, B2.
- Note trầm: C3/C#3, D3/D#3, E3, F3/F#3, G3/G#3, A3/A#3, B3.
- Note trung: C4/C#4, D4/D#4, E4, F4/F#4, G4/G#4, A4/A#4, B4.
- Note cao: C5/C#5, D5/D#5, E5, F5/F#5, G5/G#5, A5/A#5, B5.
- Note rất cao: C6/C#6, D6/D#6, F6/F#6, G6/G#6, A6/A#6, B6.
- Mixed voice: Hát pha giữa chest voice và head voice. Trong mixed voice có full mixed (hát pha toàn giọng) và light mixed (hát pha nửa giọng).
- Vibrato: Ngân rung.
- Piano: Hát nhỏ giọng vừa phải.
- Pianissimo: Hát rất nhỏ giọng.
- Diminuendo: Hát nhỏ dần.
- Fortissimo: Hát to dần.
- Subito piano: Hát nhỏ đột ngột.
- Subito forte: Hát to đột ngột.
- Forte piano: Hát to nhỏ liên tiếp.
- Messa di voce: Hát nhỏ - to - nhỏ liên tiếp.
- Airy voice: Âm hơi.
- Full lirico soprano: Nữ cao đầy đặn.
- Falsetto: Giọng gió.
- Head voice: Giọng đầu.
- Chest voice: Giọng ngực.
- Support: Hỗ trợ các vị trí âm thanh và kĩ thuật trong ca hát.
- Strain: Hát căng thẳng.
- Cadenza: Biến tấu hoa mĩ không có trong tổng phổ gốc.
- Staccato: Hát ngắt.
- Trillo: Rung láy.
- Legato: Hát liền giọng.
- Voice project: Phóng âm.
- Mask resonance: Cộng hưởng độ vang ở vùng mặt.
- Head resonance: Cộng hưởng độ vang ở vùng đầu trán.
- Throaty: Hát dính cổ
- High larynx: Cao thanh quản.
- Melisma: Luyến láy trên nhiều cao độ khác nhau (thường là từ cao xuống thấp).
- Run/riff: Chạy note phức tạp.
- Glissando: Hát vuốt tốc độ nhanh.
- Phân loại giọng theo ngũ cung: Giọng thổ, giọng thủy, giọng hỏa, giọng mộc, giọng kim.