Vì các lý do khác nhau, nhiều thông tin liên quan tới các cuộc đụng độ trên bầu trời Liên Xô đã được giữ bí mật nhiều năm qua và chỉ mới được giải mật gần đây.
Trong tuần qua, ít nhất đã có 18 lần phương tiện bay nước ngoài tiếp cận gần không phận Nga, trong đó có tới 8 lần Không quân Nga đã phải điều động máy bay chiến đấu lên ngăn chặn. Trong các vụ việc trên, không có lần nào máy bay nước ngoài xâm nhập trái phép không phận Nga.
Liên quan tới vấn đề này, giới chuyên gia quân sự đánh giá, đây không phải lần đầu tiên Nga phải đối phó với những hoạt động trinh sát hàng không trên không phận nước này, mà ngay từ thời Liên Xô đã rất nhiều lần, máy bay Mỹ và NATO đã cố tình xâm nhập không phận. Kết quả của những lần thám thính lãnh thổ Liên Xô là nhiều máy bay bị bắn rơi và phi công Mỹ tử nạn.
Những cuộc đụng độ đầu tiên
Trong thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, ngày 29-7-1953, đơn vị máy bay chiến đấu Mig-17 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương đã phát hiện một vật thể bay lạ tiến vào không phận Liên Xô theo hướng vịnh Ussuri, gần Vladivostok.
Khi tiếp cận, các phi công Mig-17 phát hiện ra vật thể bay đó là một máy bay ném bom RB-50G Superfortress thuộc Không quân Mỹ bay ở độ cao 10km với hướng bay tới là căn cứ chính của Hạm đội Thái Bình Dương.
Máy bay tiêm kích Mig-17.
Chiếc máy bay ném bom Boeing RB-50G Superfortress của Không quân Mỹ không phản hồi lại các tín hiệu cảnh báo và bất ngờ tấn công máy bay chiến đấu Liên Xô bằng pháo. Một máy bay Mig-17 do phi công Alexander Rybakov đã trúng đạn.
May mắn là chiếc Mig-17 vẫn trở về căn cứ an toàn. Sau đó, các máy bay Mig quay lại và tấn công. Chỉ trong vài phút, chiếc máy bay RB-50G bị xé nát và rơi xuống biển. Trong số 18 thành viên trên khoang, chỉ có duy nhất cơ phó John Ernst Roche còn sống.
Máy bay Boeing B-47E-50-LM Stratojet.
Hai năm sau, tháng 4-1955, một cuộc đụng độ khác đã xảy ra tại khu vực gần Kamchatka, khi một máy bay trinh sát RB-47E Stratojet bí mật xâm nhập không phận Liên Xô, nhưng bị phát hiện. Chiếc RB-47E đã bị máy bay chiến đấu Mig-15 Không quân Liên Xô bắn hạ sau đó. Toàn bộ 3 thành viên tổ lái đều thiệt mạng.
Chiếc U-2 bị bắn rơi trên bầu trời Xô Viết
Tháng 5-1960, phi công thuộc Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) Francis Gary Power điều khiển máy bay trinh sát tầm cao U-2C đã bị tên lửa phòng không bắn hạ ở độ cao 21km, khi đang xâm nhập sâu khoảng 2.000km vào không phận Liên Xô.
Trước đó khoảng 1 tháng, phi công F. Power đã thành công khi chụp được nhiều bức ảnh trinh sát chất lượng cao về các cơ sở hạt nhân bí mật của Liên Xô tại Semipalatinsk, Kazakhstan trong 1 chuyến bay trinh sát.
Ở thời điểm đó, lực lượng Phòng không-Không quân Kazakhstan đã bó tay trước máy bay U-2C do F. Power điều khiển. Tuy nhiên, "điều thần kỳ" đã không đến với viên phi công Mỹ lần 2 khi đối đầu với dòng tên lửa phòng không mới của Liên Xô triển khai gần Sverdlovsk.
Máy bay trinh sát tầm cao U-2.
Chuyên gia quân sự Nga Andrei Stanavov đánh giá về sự kiện trên: "Đơn vị tên lửa phòng không mới S-75 Dvina triển khai tại Sverdlovsk đã bắn hạ chiếc máy bay U-2 vào khoảng 9 giờ sáng. Sự kiện trên đã làm sập đổ kế hoạch trinh sát không phận Liên Xô mang mật danh Overflight.
Những nhân chứng tại hiện trường có thể nhìn thấy các mảnh vỡ của chiếc U-2 rơi xuống và phi công F. Powers bung dù thoát thân khi tới độ cao an toàn’.
Trong sự kiện bắn hạ chiếc U-2C cũng có câu chuyện đáng buồn là máy bay chiến đấu Mig-19 cử lên ngăn chặn máy bay trinh sát Mỹ đã bị trúng tên lửa phòng không.
"Chiếc Mig-19 của phi công Sergei Safronov không may trúng một quả tên lửa phòng không vốn dành cho máy bay U-2. Phi công S. Safronov tử nạn. Một chiếc Mig-19 khác may mắn né được tên lửa ở những giây cuối", hãng thông tấn RIA Novosti đăng tải.
Máy bay tiêm kích Mig-19.
Sau thảm họa của chiếc U-2C, Mỹ ra tuyên bố không liên quan tới sự việc. Tuy nhiên, các mảnh vỡ của chiếc U-2C với ký hiệu "Made in the USA" đã buộc Washington xuống nước. Tổng thống Dwight D. Eisenhower sau đó đã phải thừa nhận hoạt động của chiếc U-2.
Sự kiện trên dẫn tới hậu quả chính trị nghiêm trọng; làm mối quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ trở nên cực kỳ căng thẳng.
Vì sự kiện trên, Hội nghị thượng đỉnh Đông-Tây dự kiến tổ chức vào tháng 5-1960 đổ vỡ, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower hủy chuyến thăm chính thức tới Moscow. Phi công F. Power bị Tòa án Tối cao Liên Xô tuyên án 10 năm tù với tội danh gián điệp. Tới tháng 2-1962, F. Power được trao đổi với điệp viên Liên Xô Rudolf Abel.
Phi công F. Power bị xét xử tại Liên Xô.
"Tên lửa sống" Mig-21
Sự kiện chiếc U-2C bị bắn hạ chưa phải là lần chạm trán cuối cùng giữa Không quân Liên Xô với máy bay trinh sát Mỹ. Ngày 1-7-1960, một máy bay Boeing B-47H Stratojet thuộc Không đoàn trinh sát chiến lược số 55 của Mỹ đã vi phạm không phận Liên Xô từ hướng Na Uy. Chiếc B-47H nhanh chóng bị phát hiện và bị máy bay Mig-19 bắn hạ.
Trong số 6 thành viên tổ lái, chỉ có cơ phụ Bruce Olmstead và hoa tiêu John McKone sống sót và bị bắt. Hai phi công Mỹ được thả tự do sau đó vào tháng 1-1961. Phía Liên Xô cũng trao trả lại Mỹ thi thể của các thành viên xấu số còn lại trên chiếc B-47H.
Máy bay F-4 Phantom II.
Máy bay tiêm kích đánh chặn điểm Mig-21 của Không quân Liên Xô.
Ngoài các phi vụ trinh sát do Mỹ trực tiếp thực hiện, Liên Xô cũng từng ngăn chặn một máy bay RF-4C Phantom II của Iran trong một sự kiện bi thảm.
Chuyên gia A. Stanavov cho biết: "Đã có một bi kịch xảy ra khi máy bay trinh sát RF-4C Phantom II xâm phạm không phận Liên Xô hồi tháng 11-1973. Dù là máy bay của Iran, nhưng cơ phó của nó lại là người Mỹ. Chiếc máy bay đã xâm phạm vùng trời Transcaucasia".
Máy bay chiến đấu Mig-21SM thuộc Không quân Liên Xô được cử lên ngăn chặn. Chiếc Mig-21SM nhanh chóng tiếp cận phát hiện ra máy bay RF-4C và phóng tên lửa, nhưng trượt mục tiêu.
Trong thời điểm đó, Đại úy phi công Gennady Yeliseyev đã quyết định biến chiếc Mig-21 thành "tên lửa sống" và lao thẳng vào chiếc Phantom. Phi công G. Yeliseyev tử nạn, nhưng đã ngăn chặn được máy bay trinh sát. Toàn bộ tổ lái máy bay trinh sát của Iran bị bắt giữ sau đó.