Sau khi Nga triển khai Chiến dịch Quân sự đặc biệt ở Ukraine, một trong những chủ đề cấp bách được các chuyên gia Nga nghiên cứu là vấn đề chế áp hệ thống phòng không đối phương.
Các nhà phân tích của kênh Telegram “Người cung cấp thông tin quân sự” đã bình luận về điều này vào ngày 28/12.
Tài liệu lưu ý rằng, các chuyên gia thường nhắc lại kinh nghiệm không quá xa nhưng rất mang tính khuôn mẫu của Hoa Kỳ và các đồng minh khi họ thực hiện “Chiến dịch Bão táp Sa mạc” (Operation Desert Storm) ở Iraq, để so sánh với cuộc xung đột Nga-Ukraine hiện nay.
Tuy nhiên, quy mô lực lượng và phương tiện tham gia trấn áp lực lượng phòng không Iraq và hiệu quả của nó đã bị đánh giá thấp rất nhiều, so với những gì chiến dịch này đã mang lại trong chiến thắng nhanh chóng của phương Tây.
Cần phải nhớ lại rằng vào ngày 17 tháng 1 năm 1991, một cuộc không kích quy mô lớn của lực lượng không quân liên quân phương Tây do Mỹ, Anh lãnh đạo đã được bắt đầu triển khai, nhằm tạo điều kiện một cuộc tấn công lớn trên bộ được phát động trên toàn bộ lãnh thổ Iraq.
Từ ngày 17/01/1991 cho đến hết ngày 23/2/1991, 700-800 phi vụ oanh kích được thực hiện mỗi ngày và đến ngày 24/2, chiến dịch trên bộ mang tên “Chiến dịch Thanh kiếm Sa mạc” (Operation Desert Sword), được hỗ trợ bởi lực lượng không quân đã bắt đầu diễn ra.
Cuộc giao tranh trên bộ kéo dài 4 ngày và đến ngày 28/02/1991, quân đội Iraq đã ngừng kháng cự dọc toàn bộ chiến tuyến, trong bối cảnh không phận Kuwait và Iraq bị không quân liên quân khống chế hoàn toàn, bởi lực lượng phòng không và không quân Iraq hoàn toàn bị tê liệt.
Liên quân Mỹ chế áp hoàn toàn phòng không-không quân Iraq
Thành công nhanh chóng trên mặt đất của trong “Chiến dịch Thanh kiếm Sa mạc” được cho là có sự đóng góp lớn lao của “Chiến dịch Bão táp Sa mạc”, đặc biệt là việc lực lượng liên quân phương Tây đã sử dụng trên diện rộng các phương tiện tác chiến điện tử và công nghệ tàng hình để vô hiệu hóa lực lượng phòng không khá mạnh của Iraq.
Trong nhóm tác chiến chống lực lượng phòng không của Iraq năm 1991, chỉ có 108 máy bay tác chiến điện tử thực thụ, cả của Lực lượng Không quân và Hải quân, ví dụ như EF-111 và EA-6 và cả EC-130H.
Tổng số máy bay tác chiến điện tử (cả tác chiến điện tử thuần túy và những máy bay có khả năng sử dụng vũ khí tấn công điện tử) lên tới 176 chiếc.
Ngoài ra, còn có 36 chiếc máy bay tiêm kích bom tàng hình F-117 Nighthawk được sử dụng, để vượt qua các hệ thống phòng không.
Các nhà phân tích của kênh thông tin Telegram này cho biết thêm, trong đêm đầu tiên, tên lửa chống radar (còn gọi là tên lửa chống bức xạ) đã được liên minh đa quốc gia sử dụng, với số lượng lên đến hơn 100 quả đạn tấn công đồng loạt tới các mục tiêu phòng không của Iraq.
Tính tổng cộng trong cả “Chiến dịch Bão táp Sa mạc” hơn 2 nghìn quả tên lửa chống radar các loại đã được sử dụng để tàn phá các đài radar của các hệ thống phòng không của Iraq.
Ngoài ra, Lực lượng Không quân của Liên quân phương Tây còn sử dụng đến hàng nghìn đơn vị vũ khí khác, bao gồm cả loại tên lửa, đạn có độ chính xác cao để đánh vào các trạm radar và bệ phóng tên lửa phòng không của Iraq.
Ngoài ra, các cuộc tấn công tên lửa và oanh kích của liên quân còn băm nát các sân bay, phá hủy vô số máy bay, đồng thời đánh phá làm tê liệt các trung tâm liên lạc, sở chỉ huy của các lực lượng Iraq.
Chính đòn đánh phủ đầu và sự duy trì mật độ tập kích trên không kéo dài trong 3 tuần đã giúp liên quân phương Tây làm chủ hoàn toàn không phận Iraq và Kuwait, chi viện đắc lực cho lực lượng mặt đất của liên quân đánh bại Quân đội Iraq vốn không hề yếu, chỉ trong vòng 4 ngày.
Nga chưa chuẩn bị kỹ càng cho chiến dịch kiểm soát không phận chiến sự?
Đây là một ví dụ điển hình về sự kết hợp hoàn hảo các phương án tác chiến được chuẩn bị thực sự nghiêm túc trong thời bình và chủng loại, số lượng các loại đạn dược để chuẩn bị đè bẹp một đối thủ có lực lượng phòng không trang bị đầy đủ cả về số lượng và chất lượng.
So sánh với “Chiến dịch Bão táp Sa mạc” chuyên gia chỉ ra rằng, Nga đã không có sự kết hợp hoàn hảo các phương án tác chiến chống lực lượng phòng không và không quân Ukraine, cũng không có sự kết hợp việc sử dụng các lực lượng tác chiến điện tử, các tên lửa chống radar và tên lửa tấn công chính xác.
Do đó, các đợt tấn công tên lửa của Nga không có hiệu quả tàn phá các tổ hợp phòng không, không phá hủy được các sân bay và số lượng lớn máy bay của Ukraine, dẫn đến việc các lực lượng này vẫn có khả năng giáng trả lại các chiến đấu cơ và máy bay tiêm kích bom của Nga.
Do không làm chủ hoàn toàn được không phận Ukraine, Nga đã không thể sử dụng rộng rãi máy bay ném bom tiền tuyến để yểm trợ lực lượng mặt đất, dẫn đến việc trong những ngày đầu Chiến dịch Quân sự đặc biệt đã không thành công, buộc Moscow phải rút quân khỏi khu vực thủ đô Ukraine.
Các hướng tấn công khác trên mặt đất cũng gặp rất nhiều khó khăn khi hầu như phải sử dụng trên quy mô lớn các vũ khí Lục quân và các phương tiện tấn công không người lái cỡ nhỏ nên tiến triển rất chậm, khiến cuộc xung đột đã kéo dài sang đến năm thứ 2.
Một vấn đề khác là việc không kiểm soát được không phận đã khiến các đòn đánh của máy bay Ukraine cũng gây khá nhiều thiệt hại nặng nề cho các tàu chiến, hệ thống phòng không và các công trình quan trọng của Nga, đặc biệt là làm thu hẹp đáng kể khả năng của Hạm đội Biển Đen.
Chuyên gia cho rằng có thời điểm Điện Kremlin đã chủ quan, thiếu chuẩn bị nghiêm túc cho đòn đánh đầu tiên khi quyết định triển khai Chiến dịch Quân sự Đặc biệt ở Ukraine. Nếu có sự chuẩn bị chu đáo như chiến dịch của Liên quân Mỹ, có lẽ cuộc xung đột Nga-Ukraine đã kết thúc sớm.