Văn hoá Hoà Bình được phát hiện và khai quật trong những năm 1920 (vừa kỷ niệm 90 năm được thế giới công nhận). Đây là nền văn hóa tiền sử nổi tiếng, có mặt phổ biến ở nhiều nước Đông Nam Á nhưng phân bố dày đặc và phong phú ở Việt Nam.
Nền văn hóa tiền sử quan trọng
Mùa hè năm 1926, trong mùa điền dã đầu tiên ở sơn khối đá vôi Hoà Bình thuộc huyện Tân Lạc và Kim Bôi, tiến sĩ Madeleine Colani đã phát hiện và khai quật 12 hang động và mái đá có vết tích khảo cổ. Trong 4 năm từ 1926 đến 1930, bà Madeleine Colani đã phát hiện và khai quật trên 50 di tích văn hoá Hoà Bình, thu lượm hàng vạn hiện vật và nhận ra một nền văn hóa săn bắt hái lượm với tầng văn hóa ken dày vỏ ốc suối (melania), ốc núi (cyclophorus), xương răng động vật, tầng bếp cháy và công cụ ghè đẽo từ cuội suối basalt rất phổ biến trong vùng.
Công cụ sản xuất của cư dân Văn hóa Hòa Bình thời kỳ Đá mới được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hòa Bình. (Ảnh tư liệu Báo Hòa Bình)
Những phát hiện giống như ở Hòa Bình, do chính bà Colani mở rộng sang vùng núi Cẩm Thủy, Thạch Thành, Ngọc Lặc (Thanh Hóa), Nghệ An, Lào... , cũng như các thông tin rải rác về phát hiện tương tự ở Malaysia, Indonesia đã giúp bà vững tin hình thành một ý tưởng khoa học về một nền văn hóa khảo cổ tiền sử quan trọng có tính bao trùm cả khu vực mà cái lõi chính là các thung lũng xung quanh sơn khối Kim Bôi, nơi có đỉnh Cốt Ca, được coi như nguồn nguyên liệu basalt sừng hóa vô tận của người tiền sử Hòa Bình.
Nhân Hội nghị Các nhà tiền sử Viễn Đông họp ở Hà Nội năm 1932, bà Colani đã trình bày các phát hiện của mình tại các hang động tiền sử ở tỉnh Hòa Bình và lân cận, chính thức đề xuất một nền văn hóa tiền sử quan trọng của loài người có tính phổ cập ở một vùng rộng lớn khắp Bắc Đông Dương và ngoại vi: "Văn hóa Hòa Bình" (mang tên tỉnh Hòa Bình, Việt Nam).
Đề xuất của bà đã được toàn thể hội nghị các nhà tiền sử Viễn Đông tán thưởng. Từ đó, thuật ngữ "Hoabinhien" (Hoabinhian) xuất hiện trên báo chí, công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, từ điển... cùng với các nền văn hóa tiền sử nổi tiếng khác trên thế giới.
Văn hóa Hòa Bình là nền văn hóa săn bắt hái lượm thời đại đá phân bố ở Bắc Đông Dương phát triển trong thời kỳ cuối cánh tân (Pleistocene, khoảng trên 10 ngàn năm) đến đầu thời Toàn tân (Holocene, khoảng 7-8 ngàn năm cách ngày nay). Cư dân văn hóa Hòa Bình có vóc dáng xương to thô mang đặc trưng Austroloid (gần với thổ dân châu Úc) có trộn lẫn một số yếu tố Mongoloid, người chết được chôn cất theo kiểu nằm co nghiêng như đang ngủ, được kè chặn đá và rắc thổ hoàng.
Họ sử dụng cuội suối basalt làm nguyên liệu ghè đẽo công cụ mảnh tước và hạch. Các loài thú nhỏ như rùa, nhím cũng như bọn nhuyễn thể, giáp xác sống trong các thủy vực suối, đầm vực và trên núi đá cùng các loại côn trùng, hạt quả củ là nguồn thức ăn chính của người thuộc văn hóa Hòa Bình. Thảng hoặc họ bắt bẫy được những loài thú lớn, như hươu nai, lợn rừng, tê giác... vừa lấy thịt làm thức ăn vừa lấy xương làm công cụ.
Họ sống chủ yếu dựa vào các mái đá hay cửa hang động, để lại những bếp lửa liên tục hàng ngàn năm và những vệt mòn đi lại ở cửa hang.
Tiếp sau những phát hiện của các học giả Pháp trên lãnh thổ Việt Nam, các nhà nghiên cứu tiền sử học trong khu vực Đông Nam Á đã lần lượt phát hiện được di tích văn hóa Hòa Bình ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, và Indonesia. Nhiều học giả trên thế giới đều công nhận rằng văn hóa Hòa Bình là hiện tượng Đông Nam Á lục địa và cho đến nay, nơi tìm được nhiều di tích nhất của văn hóa Hòa Bình là Việt Nam.
Chứng cứ chắc chắn
Đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước vẫn tiếp tục đi sâu khám phá nền văn hóa nổi tiếng này, đã phát hiện trên 150 di chỉ Hoà Bình ở Việt Nam; không những số lượng di tích tăng nhiều mà phạm vi phân bố cũng trải rộng hơn. Ngoài Hoà Bình, Thanh Hoá tập trung nhiều nhất (106 địa điểm), Văn hóa Hoà Bình còn có mặt ở vùng núi các tỉnh phía bắc: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây (cũ); trải rộng đến các tỉnh: Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị và về cả phía đông đến tỉnh Quảng Ninh.
Hang xóm Trại (huyện Lạc Sơn) được đánh giá là di tích quan trọng bậc nhất, tiêu biểu cho Văn hóa Hòa Bình
Năm 1965, tại hang Thẩm Khuyên, huyện Bình Gia (Lạng Sơn), các nhà khoa học tìm thấy những chiếc răng người nằm trong lớp trầm tích màu đỏ, chứa xương cốt của các loại động vật thời kỳ Cánh Tân. Những chiếc răng này vừa có đặc điểm của răng người vừa có đặc điểm của răng vượn. Đây là chứng cứ chắc chắn về một sự tồn tại của người - vượn ở Việt Nam, cách đây 300.000 năm.
Tại di tích hang xóm Trại, xã Tân Lập (Lạc Sơn), năm 1980, giới khảo cổ thám sát thu được 108 hiện vật đá và một số xương động vật các loại. Đây là di tích Văn hoá Hoà Bình có tầng văn hoá dày, hiện vật phong phú. Tháng 5-1981, Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật thu được 1.150 hiện vật quan trọng.
Bên cạnh đó còn phát hiện ra lối đi cổ có niên đại hàng vạn năm cách ngày nay. Việc phát hiện ra lối đi cổ tại hang xóm Trại chứng tỏ hang vừa là nơi cư trú lâu dài, vừa là công xưởng để chế tác công cụ của cư dân Văn hóa Hòa Bình.
Kết quả các cuộc khai quật đã cho thấy Văn hóa Hòa Bình cổ đại đã xuất hiện và tồn tại trên địa phận nước Việt tiền sử, có niên đại khoảng 18.000 năm kéo dài đến 7.500 năm cách ngày nay.
Sự hiện diện của nền Văn hoá Hoà Bình không chỉ là một minh chứng khẳng định Việt Nam là một trong những chiếc nôi của loài người, mà còn cung cấp cho các nhà khảo cổ, các nhà khoa học, các nhà nhân chủng học... trong nước và quốc tế những cứ liệu khoa học về quá trình chuyển hoá sinh học từ người vượn tiền sử Homoeretus tiến lên người hiện đại Homosapiens, về phương thức kiếm sống, về tổ chức xã hội, khi con người ở đây đã tiến từ giai đoạn "bầy người" tới tổ chức bộ lạc nguyên thuỷ....
Tìm hiểu sự sống của tổ tiên tiền sử người Việt
Những di vật thu thập được khi tổ chức khai quật lại các di chỉ khảo cổ thời gian qua đã phần nào vén bức màn thời gian tìm hiểu sự sống và những nét căn bản của sự phát triển xã hội của tổ tiên tiền sử người Việt đã tồn tại và lưu giữ nền văn hóa nguyên thủy: Văn hóa Hòa Bình.
Nhờ đó, các nhà khoa học đã khẳng định niên đại cực thịnh của nền Văn hóa Hòa Bình rơi vào thời kỳ khí hậu khu vực đạt mức tối ưu (trên dưới 20.000 năm trước), khi mà ở hai cực nam - bắc bán cầu đạt đỉnh cao nhất của thời kỳ băng hà cuối cùng (Wueme).
(Còn tiếp)