Nhiệm vụ của biệt đội này là nghiên cứu và thực hành phương pháp đưa binh lính đến những vùng chiến sự một cách nhanh nhất, bất ngờ nhất khiến đối phương không kịp trở tay, đồng thời tấn công các mục tiêu trên mặt đất và yểm trợ các loại trực thăng vận tải khác. Tất cả những việc nói trên được gọi là chiến thuật "trực thăng vận".
Thế nhưng chỉ trong 4 năm (1961 - 1965), chiến thuật "trực thăng vận" đã phải phá sản với gần 160 chiếc "gãy cánh", hơn 200 thành viên phi hành đoàn thương vong hoặc mất tích, hoặc bị bắt làm tù binh…
Sự ra đời của chiến thuật "trực thăng vận"
Nói một cách chính xác, ý tưởng về chiến thuật "trực thăng vận" trong chiến tranh Việt Nam đã được các tướng lĩnh Mỹ thai nghén từ trước khi Biệt đội 57 ra đời.
Nó bắt nguồn từ cuộc chiến Triều Tiên, khi những chiếc trực thăng Piasecki H21 (mà lính Mỹ thường gọi là "quả chuối bay" vì hình dạng của nó nhìn tương tự như một quả chuối), dễ dàng đổ quân xuống những vùng rừng núi hiểm trở, nơi xe tăng, xe vận tải khó có thể vào được.
Trong buổi họp với những cố vấn cao cấp Mỹ và các tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa, tổ chức vào tháng 6-1961 ở Sài Gòn, Đại tướng Paul D. Harkins, Chỉ huy trưởng Phái bộ cố vấn quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam (MACV) đã nói:
"Chiến thắng ở tỉnh Hậu Nghĩa (nay là hai huyện Đức Hòa, Đức Huệ, tỉnh Long An) là một điển hình cho sự thành công của việc vận chuyển binh lính bằng máy bay trực thăng. Việt Cộng chỉ có hai bàn chân, họ không thể chạy nhanh nên cần thiết phải mau chóng phát triển hình thái tác chiến ấy".
"Chiến thắng Hậu Nghĩa" mà Paul D. Harkins nhắc đến chính là trận đụng độ giữa quân đội Việt Nam Cộng hòa được đưa đến bằng trực thăng và một nhóm nhỏ du kích Quân Giải phóng.
Trước đó, tháng 5-1961, tàu vận tải USNS T-AKV-41 chở theo 82 máy bay trực thăng Piasecki H21 cùng đội ngũ phi công cập cảng Sài Gòn. 12 ngày sau, hơn 600 lính Dù được những chiếc trực thăng này thả xuống một khu vực thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, giáp với biên giới Campuchia, nơi tin tình báo cho biết có sự xuất hiện của một đơn vị "Việt Cộng".
Bị rơi vào thế bất ngờ, đồng thời yếu hơn về quân số và vũ khí, nhóm du kích Quân Giải phóng nhanh chóng rút lui để bảo toàn lực lượng. Lính Dù tìm thấy vài hầm ngầm cùng mấy khẩu súng từ thời kháng chiến chống Pháp đã hư hỏng; nhưng một số tờ báo xuất bản ở Sài Gòn hồi đó đã "thổi" lên: "Hàng chục Cộng quân bị tiêu diệt, nhiều loại vũ khí, đạn dược bị tịch thu".
Quan điểm "nhanh chóng phát triển hình thái tác chiến bằng trực thăng" của Paul D. Harkins được sự ủng hộ nhiệt liệt của tướng William Childs Westmoreland, lúc ấy là Giám đốc Học viện quân sự West Point (tháng 7-1963, ông ta được cử giữ chức Tư lệnh phó MACV, dưới quyền Paul D. Harkins.
Đến tháng 8-1964, Westmoreland thay Paul D. Harkins, làm Tư lệnh MACV, hàm Đại tướng). Trong một báo cáo gửi Bộ Quốc phòng Mỹ, Paul D. Harkins nhận định địa hình miền Nam Việt Nam và những hình thức mà Quân Giải phóng tiến hành chiến tranh du kích, hoàn toàn phù hợp với chiến thuật "trực thăng vận", đồng thời đề xuất Lầu Năm Góc chấp thuận cho thành lập một đơn vị thí điểm.
Và thế là "Biệt đội 57" ra đời. Lúc này, loại trực thăng UH-1A Iroquois do hãng Bell Helicopter chế tạo (Iroquois là tên của một bộ lạc da đỏ ở Mỹ nhưng lính Mỹ thường gọi loại máy bay ấy là "Huey"), bay lần đầu vào tháng 3-1960.
Được trang bị một động cơ piston công suất 670 mã lực, tốc độ tối đa 198km/giờ, bay cao 3.600m, hoạt động trong phạm vi 450km, UH-1A có thể chở được 10 lính. Trước yêu cầu của Bộ Quốc phòng Mỹ, sau một số cải tiến về động cơ, vũ khí và bình chứa nhiên liệu để có thể bay nhanh hơn, xa hơn, ngày 15-10-1961, 15 chiếc UH-1A được giao cho "Biệt đội 57".
Tháng 11-1961, Biệt đội 57 di chuyển đến sân bay U Don, Thái Lan. Tại đây, phi công thực tập những bài đổ quân xuống những sườn núi cheo leo hoặc những bãi sình lầy và thậm chí ngay trên mặt sông, tập tấn công các mục tiêu cố định, di động trên mặt đất bằng tên lửa và súng máy, tập hạ cánh để bốc người lên trong trường hợp bị đối phương bắn chặn…
Ngày 21-10-1962, Biệt đội 57 đến sân bay Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. 9 ngày sau, 6 trong số 15 chiếc UH-1A thực hiện phi vụ đầu tiên là hộ tống một phi đội Piasecki H21 đổ quân xuống một địa điểm nằm ở phía tây, cách Sài Gòn 18km.
Trung úy John Wallace, phi công của một trong 6 chiếc UH-1A nhớ lại: "Tất cả những chiếc máy bay của chúng tôi đều được vũ trang bằng 2 ống phóng tên lửa cỡ 2,75-inch và 2 súng máy 7,62mm. Trước lúc những "quả chuối bay" đáp xuống, chúng tôi lần lượt phóng tên lửa và bắn súng máy vào những địa điểm khả nghi. Việc đổ quân hoàn tất. Không thấy đối phương bắn trả một phát nào".
Phi vụ thứ nhì, sáng sớm ngày 6-11-1962, toàn bộ Biệt đội 57 được huy động. 10 chiếc UH-1A chở theo một đại đội lính Dù, 5 chiếc còn lại bay hộ tống, đổ quân xuống Mã Đà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) để càn quét vào nơi mà tin tình báo cho là "mật khu của Việt Cộng".
Kết quả sau một trận chạm súng ngắn ngủi, cả hai bên không ai thương vong, du kích Quân Giải phóng rút về hướng bắc, lính Dù đốt cháy một số chòi lá cùng một ít gạo, bắp khô, thu một lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đến 16 giờ cùng ngày, 9 chiếc trực thăng hạ cánh, đưa lính Dù về lại sân bay Biên Hòa.
Trước những thành công ấy, MACV quyết định thành lập một căn cứ cố định, gọi là Trại Holloway, phục vụ cho chiến thuật "trực thăng vận", đặt ở ngoại vi thị xã Pleiku, Tây Nguyên.
Chỉ một thời gian ngắn, lực lượng Mỹ ở Holloway đã có Trung đoàn trực thăng vận tải chiến đấu số 52, trang bị toàn UH-1A, một tiểu đoàn trực thăng vận tải Chinook CH-47, ba đại đội trực thăng tải thương số hiệu 94, 519 và 755, một đại đội máy bay trinh sát O-1 Bird Dog cùng 2 trực thăng "cần cẩu bay" khổng lồ CH-54 Skycrane.
Với số lượng như thế, cùng một lúc Trại Holloway có thể vận chuyển 1 tiểu đoàn, khoảng 400 lính đến những nơi nghi ngờ có sự hoạt động của Quân Giải phóng.
Thiếu úy McCulloch, phi công lái chiếc UH-1A thuộc Trung đoàn 52 kể: "Chúng tôi phụ trách bốn tỉnh cao nguyên là Darlac, Pleiku, Kontum và Đà Lạt (tên do chế độ Sài Gòn đặt, nay là Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng).
Thường thì khi nhận được tin có Vi Xi (tiếng lóng lính Mỹ dùng để gọi tắt hai chữ Việt Cộng) xuất hiện ở nơi nào đó, chúng tôi đổ quân xuống và yểm trợ họ bằng hỏa lực từ trên không để họ tìm và diệt".
Nếm mùi lửa đạn
Cuối năm 1962, sau nhiều cuộc "tập dượt", Quân đội Mỹ xây dựng một phương án chuẩn trong việc sử dụng máy bay UH-1A phục vụ chiến thuật "trực thăng vận".
Theo phương án này, mỗi phi vụ đổ quân có 1 trực thăng chỉ huy, gọi là COC và tùy theo số lượng binh lính tham gia, có thể có từ 10 đến 50 chiếc UH-1A chở lính, 5 hoặc 15 trực thăng vũ trang UH-1A bay theo yểm trợ. Ngoài ra còn có vài chiếc UH khác làm nhiệm vụ cấp cứu, tải thương.
Đến năm 1964, bên cạnh những chiếc UH-1A, quân Mỹ được bổ sung thêm loại UH-1B - rồi sau đó là UH-1D, ống xả quay ngược lên trời để tránh tên lửa tầm nhiệt của Quân Giải phóng. 2 loại này mỗi chiếc chở được 12 lính hoặc 6 cáng cứu thương, tốc độ bay cũng tăng lên 215km/giờ. Súng máy 7,62mm được thay bằng minigun 6 nòng, mỗi phút bắn ra 3.000 viên đạn.
Ngày 8-2-1965, một tiểu đoàn tên lửa Hawk của lính thủy đánh bộ Mỹ từ đảo Okinawa chuyển đến Đà Nẵng để thiết lập hệ thống phòng thủ bờ biển. Đúng một tháng sau, lúc 9 giờ sáng ngày 8-3-1965, tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn lính thủy đánh bộ số 9 đặt chân lên bờ biển từ Phú Lộc đến Xuân Thiều (nay thuộc quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng).
Chiều cùng ngày, cầu không vận đưa tiểu đoàn 2 cũng từ Okinawa đáp xuống sân bay Đà Nẵng. Tổng số quân từ các lần đổ bộ của Lữ đoàn 9 là khoảng 3.500 lính. Chỉ tính riêng máy bay trực thăng, biên chế thuộc lữ đoàn này có 60 chiếc UH-1B.
Từ đó cho đến giữa năm 1972, vào những lúc cao điểm, có hơn 3.900 trực thăng hoạt động từ Quảng Trị đến Cà Mau, 2/3 trong số đó là UH-1B và 1D.
Theo sự bố trí của MACV, mỗi lữ đoàn bộ binh Mỹ đều có 1 đại đội trực thăng. 1 sư đoàn có một tiểu đoàn trực thăng (từ 100 đến 120 chiếc nếu là sư đoàn kỵ binh không vận), chia thành các đơn vị trinh sát, chở quân, hỏa lực và tải thương, tiếp vận.
Trang bị cho đơn vị trinh sát thường là trực thăng "cán gáo" OH-6A hoặc OÍ-58D, vận tải là UH-1B, 1D còn hỏa lực là AH1 Cobra (rắn hổ mang), UH- 1B, 1D. Riêng tiếp vận thì dùng CH54 hoặc CH47.
Thời gian đầu, Quân Giải phóng gặp phải một số thiệt hại vì chiến thuật "trực thăng vận" nhưng không lâu sau đó, họ đã sáng tạo ra nhiều cách đánh. Klaus Vinski, phi công Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 kể:
"Đáng sợ nhất là họ đặt mìn định hướng ở dưới đất. Khi chúng tôi hạ thấp xuống để đổ quân thì họ cho nổ mìn, thổi ngược lên. Ở những vùng rừng núi trên cao nguyên, họ còn đặt mìn định hướng trên ngọn cây, nổ chụp xuống những chiếc trực thăng đang tiếp đất".
Quyết không để đám "giặc nhà trời" tung hoành ngang ngược, 23 giờ ngày 6-2-1965, Tiểu đoàn 409 Quân Giải phóng bí mật tiếp cận hàng rào Trại Holloway, được bảo vệ bởi một tiểu đoàn Biệt Động quân Sài Gòn cùng 5 đại đội bộ binh và một chi đoàn xe bọc thép.
Bên cạnh đó, Trại Holloway còn có nhiều lớp hàng rào kẽm gai cao 10m, mìn chiếu sáng và mìn bẫy. Trung sĩ Stevenson, thuộc đội Quân cảnh tuần tra bảo vệ sân bay kể:
"Họ vào bằng 3 hướng. Điều xui xẻo nhất với chúng tôi là lúc họ cắt hàng rào, một ai đó đã vô tình vướng vào dây bẫy của một quả mìn chiếu sáng. Mìn nổ, cả một góc trời sáng rực nhưng đội Quân cảnh tuần tra lại cho rằng có thể chỉ do một con chuột nào đó gây ra".
Stevenson kể tiếp: "Sau khi cắt xong hàng rào, súng cối của họ bắn liên tục vào các vị trí phòng thủ mà theo tôi, họ đã nghiên cứu kỹ lưỡng từ trước.
Lúc tiếng súng vừa dứt, một mũi của họ đánh vào sở chỉ huy, trung tâm truyền tin, khu nhà ở của phi công, thợ máy và chuyên viên kỹ thuật, một mũi khác đánh vào các nhà chứa máy bay còn mũi thứ ba đánh vào kho chứa bom đạn, xăng dầu".
Cuộc tấn công chỉ kéo dài đúng 5 phút tính từ lúc những chiến sĩ Quân Giải phóng xông vào Trại Holloway. Kết quả 8 lính Mỹ chết tại chỗ, trong đó có 5 phi công, 126 người khác bị thương, 10 trực thăng bị phá hủy, 15 chiếc khác hư hỏng nặng, hàng chục căn nhà bốc cháy, nhiều nhà khác tan tành vì đạn cối.
Chưa hết, khi Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 Việt Nam Cộng hòa gửi quân đến cứu viện thì lại bị Quân Giải phóng phục kích, 26 lính chết, 47 người bị thương, 6 xe vận tải quân sự cháy rụi.
(Còn tiếp)