Chụp ảnh Selfie có vẻ như là một khái niệm mới mẻ trong thời đại bùng nổ của điện thoại di động. Bạn có thể tự chụp ảnh cho mình và cũng có thể xem ảnh ngay lập tức.
Tuy nhiên, con người đã có nhu cầu tự ghi lại hình ảnh của mình từ rất lâu. Và kể từ khi nhiếp ảnh ra đời gần 2 thế kỷ trước, người ta đã không ngừng cố gắng để có được những tấm ảnh của mình được chính tay mình chụp.
Bức ảnh selfie đầu tiên của nhân loại?
Chúng ta có lẽ sẽ không biết chắc được ai là người chụp ảnh selfie cho mình đầu tiên. Tuy nhiên, Robert Cornelius vẫn thường được cho là người đầu tiên chụp ảnh selfie vào năm 1839, chỉ 2 tháng sau khi quy trình nhiếp ảnh của Louis Daguerre được giới thiệu ở Paris.
Cornelius đã chụp 1 bức ảnh huyền thoại, được cho là bức ảnh selfie đầu tiên trên thế giới.
Bức ảnh này thực sự khá khó để chụp được. Cornelius phải chụp ảnh trong một ngày đầy ánh nắng, và ông phải đứng im trong vòng từ 3 đến 15 phút. Những ngày ban đầu của nhiếp ảnh, thực sự khó khăn để có thể có được một bức ảnh selfie.
Ngày nay, nhiếp ảnh là một phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng trong quá khứ, đó là quy luật, là sự rèn luyện và kĩ năng.
Selfie bắt đầu bằng gương, hẹn giờ và những mẹo vặt
Những chiếc điện thoại ngày nay giúp chúng ta dễ dàng chụp những bức ảnh của mình bằng camera trước, và chúng ta cũng có thể thấy ngay được ảnh của mình. Nhưng vào ngày xưa, máy ảnh chẳng hề có những chức năng như vậy.
Vào cuối thế kỷ 19, các nhiếp ảnh gia thường sẽ tập trung vào con đường chuyên nghiệp hoặc ít nhất cũng chụp ảnh nghiệp dư một cách nghiêm túc. Việc này hoàn toàn không chỉ là chụp ảnh đều đặn mỗi ngày, mà nó đòi hỏi người ta phải có kiến thức và kĩ năng về nhiếp ảnh.
Các nhiếp ảnh gia thời này thường sử dụng gương và bộ hẹn giờ để tự chụp ảnh, nhưng với những bức ảnh giống như chúng ta vẫn chụp hàng ngày thì vẫn rất khó để có được.
Những chiếc camera hộp thời này chỉ có ống kính tiêu cự cố định, và chúng ta phải chụp ảnh trong điều kiện nắng tốt với khoảng cách lấy nét là trên 1 mét.
Máy ảnh Kodak Brownie đã giúp cho nhiếp ảnh trở nên gần gũi hơn với công chúng, người ta có thể gởi cả toàn bộ máy ảnh lại cho Kodak để tráng ảnh.
Điều này giúp cho nhiều người có thể mạnh dạn tự chụp ảnh cho mình hơn, kể cả khi họ không có điều kiện tự tráng ảnh. Tuy nhiên, những khó khăn trong công đoạn ngắm lấy nét, canh chỉnh thời gian phơi sáng vẫn còn là những khó khăn lớn.
Độ nhạy sáng của film cũng là một vấn đề rất quan trọng. Ngày nay, film chụp ảnh thường có độ nhạy sáng xoay quanh mức ISO 400. Nhưng vào ngày xưa, film chỉ có độ nhạy sáng khoảng mức 2.
Bạn thấy đấy, trừ khi bạn có một cánh tay thật dài và thật khỏe, một số kiến thức nhất định về nhiếp ảnh, ánh sáng mặt trời thật tốt, và thêm một chút may mắn nữa. Nếu không thì sẽ chả có bức ảnh selfie nào đâu. Do đó, việc sử dụng gương và bộ hẹn giờ vẫn là mấu chốt cho việc chụp ảnh selfie vào thời kỳ này.
Friese Greene cuối cùng cũng chụp lại được nụ cười của mình vào năm 1880.
Những bức ảnh selfie đầu tiên đều rất đáng giá, vì chúng rất khó để có thể chụp được.
Bức ảnh selfie này của Joseph Byron cùng với bằng hữu của mình là một trò thử của ông, vào thời điểm đó.
Năm 1920, Joseph Byron đã làm chủ một studio và là một trong những nhiếp ảnh gia tiếng tăm nhất, tất nhiên thì ông có đủ điều kiện để làm vài trò phá cách, như bức ảnh này vậy. Tuy nhiên, chụp ảnh selfie vào thời điểm này vẫn khá khó khăn.
Kể cả khi máy ảnh được nâng cấp, vẫn còn đó những rào cản về kĩ thuật.
Selfie càng trở nên dễ dàng hơn theo thời gian, nhờ vào công nghệ được cải tiến liên tục. Ống kính cơ động hơn, dễ sử dụng hơn, film có độ nhạy sáng cao hơn nhiều so với trước đó.
Trong đệ nhị thế chiến, người lính dù này đã có thể chụp ảnh selfie khi đang rơi. Chúng ta có thể thấy công nghệ đã tiến bộ như thế nào. Tuy nhiên, cho dù máy ảnh có tốt hơn thì vẫn không có cách nào để ngắm và lấy nét được.
Và như vậy, hầu hết các bức ảnh selfie trong thời kỳ đầu tiên của nhiếp ảnh đều được chụp nhờ có gương. Hàng loạt các bức selfie trong gian đoạn năm 1940-1950 có thể cho ta thấy máy ảnh được cải tiến liên tục không ngừng nghỉ.
Ngày nay, nhờ vào máy ảnh kĩ thuật số chất lượng tốt, chúng ta có thể xem ngay những bức ảnh của mình chụp mà không cần phải "xoay vặn" và vắt óc như trước nữa.
Theo Vox