Cải canh - Vị thuốc quý
Cây cải canh.
Cải canh còn có tên khác là cải bẹ xanh, cải xanh, cải cay.
Tên khoa học: Brassica juncea (L.) Czern. et Coss., họ Cải (Brassicaceae).
Cải canh là cây trồng lấy lá làm rau ăn. Hạt ép dầu, điều chế mù tạt làm gia vị hay dùng trong công nghiệp.
Trong y học phương đông, hạt cải canh dùng với tên "giới tử", có công dụng như hắc giới tử, bạch giới tử.
Thành phần hóa học: Hạt cải canh có 30 - 38% dầu béo, 2 - 9% tinh dầu và chất nhày. Trong hạt cải có chất sinigrosid (0,5 - 2 %), khi gặp nước men myrosinase thủy phân cho glucose, kali sulfat acid và alyl isothiacynat (tinh dầu mù tạt) – một chất lỏng, dễ bay hơi, không màu, gây chảy nước mắt, khi kết hợp với amoni hydroxyd thành alylthioure.
Trong lá có protid, lipid, glucid, celulose, caroten, vitamin C, acid amin, các nguyên tố Ca, P, Fe.
Tính vị quy kinh: Cải canh có vị hơi cay đắng, tính ấm; vào kinh phế, vị.
Hạt cải canh còn gọi là giới tử.
Công năng chủ trị: Khu đàm, lợi khí, ôn trung, kiện vị, tán hàn, giải biểu. Chữa đàm ẩm nội thịnh, ho có đờm trệ, ngực bụng đầy tức.
Cải canh là loại thực phẩm quen thuộc trong bữa cơm gia đình cung cấp protid, lipid, glucid, celulose, caroten, vitamin C, acid amin, các nguyên tố Ca, P, Fe; hỗ trợ hệ tiêu hóa, chống táo bón, chống lão hóa, hỗ trợ tim mạch, chữa gout và phòng chống ung thư bàng quang; dùng chữa ho hen , làm tan khí trệ, chữa kết hạch, đơn độc sưng tấy.
Giới tử có tác dụng ôn hóa hàn đàm (làm ấm, tiêu đờm do lạnh), lợi khí, tán kết, chỉ thống. Chữa các chứng hàn đàm ủng phế, đàm ẩm khí nghịch, đàm thấp kinh lạc, loa lịch đàm hạch; làm nguyên liệu để sản xuất mù tạt.
Liều dùng: Giới tử: 4g đến 8g. Dùng ngoài không kể liều lượng. Cải canh: 100 – 300g
Kiêng kỵ: Người sức yếu, sốt nóng (khí hư hữu nhiệt), yếu phổi ho khan không dùng.
Cải canh nấu với gừng.
Một số đơn thuốc có giới tử
- Trừ đờm, chữa ho: Hạt cải canh 4g, hạt tía tô 12g, hạt rau cải củ 12g. Sắc uống. Dùng cho các chứng bệnh do đờm lạnh, ho, hen suyễn , đờm nhiều và loãng, tức ngực.
- Chữa đờm ứ tắc, giảm đau - Thuốc bột hạt cải: Hạt cải canh 4g, hạt gấc 12g, một dược 12g, quế tâm 12g, mộc hương 12g. Chế thành thuốc bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g, với rượu trắng hâm nóng. Chữa đờm vướng tắc, đau nhức khớp .
- Trừ độc, tiêu nhọt:
+ Hạt cải canh, hành ta, liều lượng như nhau. Nghiền hạt cải thành bột, cho hành củ vào trộn nhuyễn, đắp vào chỗ bị nhọt hay hạch. Mỗi ngày làm một lần cho đến khi khỏi. Chữa áp xe lạnh (âm thư), nổi hạch, nhọt lâu ngày mà không có đầu.
+ Hạt cải canh nghiền thành bột, thêm ít giấm hòa đều, đắp chỗ nhọt mới phát.
Không dùng nước luộc gà để nấu cải canh.
Các món ăn chữa bệnh
- Phòng chống cảm mạo: Rễ cải canh 60 – 80g, đường đỏ 30g. Rễ cải rửa sạch, thái đoạn; sắc lấy nước; cho uống trong ngày.
- Chữa hàn đàm khái thấu: Cải canh 200g, gừng tươi 15 - 20g. Cải rửa sạch, gừng rửa sạch, đập rập. Nấu lấy nước cho uống. Chữa ho do đờm lạnh, vùng ngực và cơ hoành đầy tức.
- Chữa xuất huyết do loét dạ dày, hành tá tràng: Cải canh rửa sạch, cắt đoạn, nhúng trong nước sôi 5 – 10 phút, ép lấy 30 – 50 ml nước, hâm nóng cho uống (có thể thêm đường trắng, liều lượng vừa đủ).
- Kiện tỳ, hỗ trợ đường tiêu hóa: Cải canh rửa sạch, phơi héo, cắt đoạn, ngâm chìm trong nước muối (tỷ lệ ≥ 4%), 3 – 5 ngày. Ăn rau và uống nước trong bữa ăn. Dùng khi dạ dày thiếu acid, sôi bụng, phân sống hoặc các triệu chứng lạm dụng kháng sinh đường uống (để tái tạo vi khuẩn có ích trong ruột). Do dưa chua sinh nhiệt thấp nên dùng làm món ăn cho người béo phì và đái tháo đường.
Tại sao không nên nấu rau cải với nước luộc gà?
Thịt gà vị ngọt, tính ấm; có tác dụng ôn trung ích khí, bổ tinh tủy. Nước canh gà cũng có tác dụng như vậy.
Rau cải có vị hơi cay đắng, tính ấm; có tác dụng khu đàm, lợi khí, ôn trung, kiện vị, tán hàn, giải biểu. Nhưng khi dùng nước canh gà nấu với rau cải thì vị cay đắng của rau cải làm mất vị ngọt và hương vị thịt gà nên người ta không nấu rau cải với nước thịt gà mà thường dùng bí xanh, khoai rây, cà rốt… Các loại rau này vị ngọt mát làm tăng hương vị của món canh trong bữa cơm gia đình.