Cuộc chiến quanh báo cáo tra tấn của CIA: Cuộc chiến bắt đầu Cựu Tổng thống Ba Lan không biết về những màn tra tấn của CIA “Vua tra tấn” của CIA
Điều đặc biệt nhất là cả phe Dân Chủ lẫn Cộng Hòa trong Thượng viện đều đồng ý với nội dung của bản báo cáo này.
Trong bản báo cáo, hai cái tên được nhắc đến nhiều nhất là John Bruce Jessen và James Elmer Mitchell. Báo chí Mỹ gọi cả hai là "vua tra tấn"…
Con thú lớn sa bẫy
Khi Abu Zubaydah, tay bị còng, hai chân bị xích, lê bước ra khỏi phòng giam Trại Z thuộc một nhà tù bí mật ở Pakistan dưới sự giám sát chặt chẽ của hai người lính Quân cảnh Mỹ, anh ta không hề mường tượng ra những gì đang đợi mình. Sinh ngày 12-3-1971 tại Arab Saudi trong một gia đình có 8 anh chị em, tên thật của Zubaydah là Zayn al-Abidin Muhammad Husayn.
15 tuổi, Husayn bỏ nhà đến khu bờ Tây rồi nhanh chóng lao vào những cuộc biểu tình của người Palestine chống Israel. Hai năm sau đó, anh ta đến Ấn Độ học ngành công nghệ thông tin. Năm 1991, lúc đã 20 tuổi, Husayn đi Afghanistan, gia nhập Al Qaeda để thực hiện sứ mệnh "thánh chiến" và cũng từ đó, cái tên cúng cơm Zayn al-Abidin Muhammad Husayn biến thành Zubaydah.
Năm 1992, Zubaydah bị thương trong một trận đánh với nhiều mảnh đạn găm vào đầu khiến anh ta mất trí nhớ. Một trong những mảnh đạn ấy còn gây tổn thương nhánh thần kinh số 10 (thần kinh quặt ngược) nên anh ta mất khả năng phát âm trong hơn một năm.
James Elmer Mitchell (trái) và John Bruce Jessen, hai ông "vua tra tấn".
Khi đã hồi phục, Zubaydah được Osama Bin Laden cử đến trại huấn luyện Khalden, Afghanistan, với nhiệm vụ giám sát các tân binh đồng thời chế tạo và cung cấp hộ chiếu giả cho họ để họ có thể nhập cảnh, hoạt động ở những quốc gia khác.
Tháng 3-2000, CIA xác định Zubaydah là một trong những lãnh đạo cao cấp của tổ chức khủng bố Al Qaeda, là phụ tá tin cậy của Bin Laden, đứng hàng thứ tư sau Bin Laden.
Vẫn theo CIA, Zubaydah có vai trò rất quan trọng trong vụ tấn công đại sứ quán Mỹ ở Đông Phi. Bên cạnh đó, anh ta còn bị tòa án Jordan kết án tử hình vắng mặt vì đã âm mưu đánh bom vào các cơ sở của Mỹ và Israel, đặt tại quốc gia này.
Tháng 8-2001, trong một báo cáo đóng dấu tuyệt mật gửi Hội đồng An ninh quốc gia, Cảnh sát Liên bang Mỹ (FBI) nghi ngờ Bin Laden đang có kế hoạch tấn công khủng bố nhằm vào nước Mỹ, trong đó cái tên Abu Zubaydah nhiều lần được nhắc đến. Khi hai chiếc máy bay lao vào tòa tháp đôi, Trung tâm thương mại New York hôm 11-9-2001, CIA lập tức mở chiến dịch truy lùng Zubaydah.
Ngày 28-3-2002, đặc vụ CIA và FBI, kết hợp với Cơ quan Tình báo Pakistan - sau khi trả 10 triệu USD cho phía Pakistan để mua tin - đã tiến hành đột kích "ngôi nhà an toàn" ở Faisalabad, Pakistan. Trong cuộc đột kích này, Zubaydah bị nhóm đặc vụ bắn vào đùi, tinh hoàn và dạ dày. Chưa nhận diện được Zubaydah, CIA tống anh ta lên chiếc xe bán tải cùng với các tù nhân khác rồi giao cho Pakistan.
Đến khi một sĩ quan cao cấp của FBI xác định kẻ bị thương chính là Zubaydah thì FBI mới vội vã đề nghị Pakistan cho trích xuất anh ta rồi đưa anh ta đến bệnh viện trong sự giám sát cẩn mật. Các bác sĩ phẫu thuật cho Zubaydah nói với John Kiriakou, trưởng nhóm CIA tại Pakistan rằng chưa bao giờ họ thấy một bệnh nhân sống sót với những vết thương nghiêm trọng như vậy.
Để bảo đảm Zubaydah sẽ sống, FBI và CIA mời một bác sĩ từ Bệnh viện Đại học Johns Hopkins, Mỹ - là nơi chuyên khám và điều trị cho các đời tổng thống Mỹ - bay đến Pakistan, tham gia chữa cho Zubaydah.
Khám xét "nhà an toàn", CIA thu được những cuốn sổ tay do Zubaydah ghi chép, số lượng lên đến 1.000 trang, trong đó anh ta viết lại những suy nghĩ của mình từ lúc còn là một cậu bé cho đến lúc trưởng thành, nhất là sau khi điều trị vết thương do mảnh đạn ở đầu, Zubaydah viết tỉ mỉ về những gì mà các nhà lãnh đạo của Al Qaeda đã nói với anh ta nhưng mã hóa dưới những cái tên khác nhau.
Với CIA, đây là một tài liệu vô giá, nó tiết lộ những kế hoạch khủng bố trong tương lai của Al Qaeda và nhất là bảng liệt kê những nhân vật cao cấp của Al Qaeda mà từ đó, CIA đã lần ra nơi ẩn náu của Bin Laden. Các nhà phân tích của CIA cho rằng Zubaydah viết những điều này trong trạng thái rối loạn nhân cách.
Cũng qua khám xét "nhà an toàn", CIA còn thu được 2 thẻ tín dụng. Kết quả xác minh cho thấy Zubaydah thường dùng thẻ này để giao dịch với một số ngân hàng ở Arab Saudi và Kuwait.
Dựa vào những manh mối ấy, CIA lần ra thêm vài lãnh đạo cao cấp của Al Qaeda cũng có tài khoản tại các ngân hàng này và sự liên kết giữa họ với một số nhân vật quan trọng ở Trung Đông - đặc biệt là ở Arab Saudi.
Những thẻ tín dụng ấy được gửi về Washington nhưng nó chưa bao giờ được khai thác một cách đầy đủ và có hệ thống mặc dù CIA đã xác định: "Một nhà tài chính Hồi giáo với một quá khứ đáng ngờ, thông qua ngân hàng, đã có những kết nối với Taliban ở Afghanistan, Al Qaeda ở Arab Saudi".
Với số tiền 10 triệu USD do Mỹ trả để bắt được Zubaydah, Cơ quan Tình báo Pakistan xây một trụ sở mới trên khu đất rộng 35 hécta, còn thừa mua một máy bay trực thăng.
Công ty SERE
Sau khi bắt được Zubaydah, những nhân vật hàng đầu trong bộ máy cầm quyền của Tổng thống Bush là Phó Tổng thống Dick Cheney, Ngoại trưởng Colin Powell, Giám đốc CIA George Tenet, Cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice, Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld và Tổng chưởng lý John Ashcroft đã có một buổi họp để họp thảo luận về việc "liệu có nên cho phép CIA sử dụng một cách hợp pháp "những kỹ thuật khắc nghiệt" để khai thác thông tin từ Zubaydah hay không?".
Cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice sau khi đề cập đến "Công ty SERE", đã phát biểu: "Tôi nhớ lại rằng tất cả các nhân viên thẩm vấn Mỹ đều phải trải qua những khóa đào tạo kỹ thuật hỏi cung cả về thể chất lẫn tâm lý. Vì vậy, tôi đồng ý cho CIA tiến hành "biện pháp khắc nghiệt".
Cái tên "Công ty SERE" mà bà Condoleezza Rice nhắc đến chính là tên gọi tắt của "Survival, Evasion, Resistance and Escape - Sống sót, Lẩn tránh, Chống lại và Trốn thoát".
Nó ra đời dựa trên kinh nghiệm của các phi công Anh, Mỹ, bị bắn rơi nhưng đã vượt thoát khỏi những trại giam của Đức Quốc xã trong Thế chiến 2 rồi sau đó, nó được dùng để huấn luyện cho biệt kích Mũ nồi xanh và đặc nhiệm SEAL của Hải quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Từ năm 1980, để đào tạo cho các phi công, SERE đặt địa điểm tại căn cứ không quân Fairchild, bang Washington.
Với bộ binh, SERE đào tạo họ tại Trại Fort Bragg, bang North Carolina và Trại Fort Rucker, bang Alabama. Riêng Hải quân và Thủy quân lục chiến, trung tâm huấn luyện "Sống sót, Lẩn tránh, Chống lại và Trốn thoát" đặt ở Trại Warner Springs, Trại Bridgeport, bang California và một phần của xưởng đóng tàu Portsmouth Naval ở Kittery, bang Maine.
Cũng từ năm 1991, giáo trình giảng dạy được SERE bổ sung thêm mục "tra tấn", kể cả tra tấn bằng biện pháp "cưỡng bức tình dục", lấy kinh nghiệm từ việc khai thác tù binh Iraq trong chiến dịch "Bão sa mạc 1990-1991".
16 món “ăn chơi”
Bắt được Zubaydah, địa điểm đầu tiên CIA giam giữ để hỏi cung anh ta là một nhà tù bí mật ở Pakistan, nơi được CIA đặt cho bí danh là "Trại Z".
Một thời gian ngắn sau đó, anh ta bị chuyển đến những nhà tù bí mật khác ở Thái Lan, Afghanistan, Ba Lan, Bắc Phi và một nhà tù trong căn cứ hải quân Mỹ ở Diego Garcia. Nhưng dù ở bất cứ nhà tù nào, người trực tiếp áp dụng "biện pháp khắc nghiệt" để hỏi cung Zubaydah vẫn là John Bruce Jessen và James Elmer Mitchell, hai nhân vật được báo chí Mỹ gọi là "vua tra tấn".
Sinh ngày 28-7-1949 ở bang Idaho, John Bruce Jessen là cựu sĩ quan không quân đã nghỉ hưu, có bằng tiến sĩ tâm lý. Cùng với James Elmer Mitchell, cả hai thành lập Công ty Mitchell Jessen and Associates, văn phòng đặt tại Spokane, bang Virginia.
Họ sáng tác ra cái gọi là "kỹ thuật thẩm vấn tăng cường" nhằm mục đích bắt tù nhân phải khai hết những thông tin quan trọng, đồng thời phá vỡ niềm tin vào tôn giáo, lãnh tụ, cũng như triệt tiêu sự phản kháng của họ, bắt họ phải tuân thủ và phục tùng những mệnh lệnh mà người trực tiếp hỏi cung đặt ra.
Với "sáng tác" ấy, Mitchell Jessen and Associates bán cho CIA với giá 81 triệu USD, còn "kỹ thuật" thì được CIA sử dụng trong các cuộc thẩm vấn.
Thoạt đầu, khi tiến hành hỏi cung Zubaydah, John Bruce Jessen cho đặt anh ta nằm lên một chiếc bàn, tay chân bị trói chặt, đầu hơi dốc xuống. Tiếp theo, "vua tra tấn" phủ lên mặt Zubaydah một tấm khăn rồi dùng một bình nước lã, dung tích 4,5 lít đổ lên khăn để các điều tra viên tận mắt "học hỏi".
Cứ mỗi khi Zubaydah há miệng thở thì nước lại ồng ộc tuôn vào mũi, vào miệng anh ta. Sau 3 đến 4 bình nước, John Bruce Jessen ngừng lại, giở khăn ra rồi bắt đầu hỏi.
Nếu Zubaydah không trả lời hoặc trả lời quanh co, giấu giếm, tấm khăn lại tiếp tục được phủ lên mặt anh ta và nước lại tiếp tục đổ xuống. Cho đến tháng 5-2006, khi chuyển về nhà tù Guantanamo nằm trong vịnh Cuba, Zubaydah đã bị "đổ nước" tổng cộng 83 lần, mắt bên trái bị hỏng, phải múc bỏ.
Tuy nhiên, đấy mới chỉ là 1 trong 16 món "ăn chơi" do John Bruce Jessen và James Elmer Mitchell sáng tác.
Ali Soufan, một trong những nhân viên thẩm vấn của FBI, khi ra làm chứng trước Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ vào năm 2009 đã khẳng định hình thức hỏi cung của CIA thực chất là tra tấn. Soufan nói:
"Có 10 kỹ thuật được các điều tra viên của FBI và CIA thường xuyên sử dụng. Đó là tù nhân phải "ngồi thẳng, mắt nhìn vào người hỏi cung và không được phép cúi xuống hay quay đi chỗ khác".
CIA gọi đây là "nắm bắt sự chú ý". Thông thường, tù nhân phải ngồi như thế từ 6 đến 10 tiếng đồng hồ nhưng từ tiếng thứ hai trở đi, thần kinh tù nhân bắt đầu căng thẳng, đầu óc họ lùng bùng.
Nếu tù nhân gục xuống theo phản xạ vì quá mệt hoặc cố ý tránh né, điều tra viên sẽ kéo họ ngồi thẳng lại rồi tát vào mặt họ cho tỉnh ra. Nhiều người chịu không nổi, la hét ầm ĩ và đó chính là lúc điều tra viên bắt đầu khai thác.
Một món "ăn chơi" khác: Đó là tạo cho tù nhân thường xuyên thiếu ngủ. Vào ban đêm, điều tra viên bất ngờ đập cửa khiến tù nhân giật mình tỉnh giấc, hoặc phun nước lạnh vào chỗ nằm của tù nhân. Hình thức này được lặp đi lặp lại liên tục trong 1 tuần, thậm chí 10 ngày.
Sự thiếu ngủ khiến đầu óc tù nhân mụ mị, những lần bị lôi đi hỏi cung chỉ muốn trả lời cho nhanh để được về ngủ. Và vì đầu óc mụ mị, lại muốn "trả lời nhanh" nên tù nhân rất dễ nói hớ…