Đó là vùng đất hoang sơ, một nơi hiếm hoi ở Gia Lai nói riêng, Tây Nguyên nói chung mà người ta có thể bắt gặp những con người là hiện thân của nhiều tục lệ xưa cà răng căng tai, nơi từng duy trì tục lệ khoét lõi cây rừng khổng lồ làm áo quan chôn người chết.
Truyền thuyết huyền hoặc
Từ TP Pleiku, Gia Lai, vượt chặng đường gần 50 km đến trung tâm huyện Chư Pảh, từ đây lại tiếp tục cuộc hành trình hơn 10 km đến địa phận xã Ia M’nông và thử thách cam go nhất tại nơi này là quá trình chinh phục tiếp 33 km đường đèo hiểm trở mới đến khu vực nuôi ma, chúng tôi đến làng Dip của người Jrai.
Khoảng 4 giờ chiều, cơn mưa rừng lất phất, trời sầm tối. Người Jrai với bản tính hiếu khách, đón tiếp nhiệt tình.
Già làng Rơ Chăm Siu năm nay đã ngoài 80 mùa rẫy (người Jrai tính theo mùa rẫy, một mùa rẫy là một tuổi) nói: “Theo quan niệm của tộc người Jrai, mọi sinh vật khi còn sống, dẫu là con người hay muông thú đều có hồn, gọi là m’ngắt.
Khi người chết, m’ngắt sẽ biến thành atâu (ma). Do đó, trong thời gian chưa làm lễ bỏ ma (bỏ mả, ngôn ngữ bản địa gọi là hoă lui bơxát), hồn của người chết vẫn ở lại nghĩa địa.
Trong thời gian này, thân nhân của người chết phải làm lễ giữ mả, nuôi ma như nuôi người sống”.
Già Siu bảo, người sống ngày ngày đem cơm nước, rượu thịt đến nhà mồ cho hồn ma ăn uống, ngoài ra còn phải quét dọn nhà cho ma, đốt lửa cho ma sưởi ấm, hát cho ma nghe, khóc và tâm tình, kể chuyện cho ma nghe….
Khi một người trong buôn mất, nếu chưa tiến hành lễ bỏ ma thì người chết vẫn chưa chính thức là thành viên trong thế giới atâu – thế giới của những hồn ma tổ tiên.
Do đó, lễ bỏ ma là nghi lễ thiêng liêng, gia chủ phải mổ trâu, phải ủ nhiều ghè rượu đãi cả làng để tiễn hồn ma đi về vĩnh viễn với tổ tiên ở thế giới bên kia, từ đó họ không còn can hệ gì với người sống.
Còn nếu gia đình người chết chưa đủ tiền làm lễ bỏ mả thì họ phải vào rừng nuôi ma đến khi nào làm lễ xong mới thôi.
Điều này đồng nghĩa với việc trong thời gian này, người chết và người sống vẫn “gặp nhau”, nhưng chỉ gặp khi mặt trời đã ẩn sau núi.
Lỗ âm dương mà người sống đổ thức ăn nuôi người chết.
Đêm chìm theo lời kể, các già chậm rãi “ru” những vị khách miền xuôi bằng những truyền thuyết về thế giới ma đầy huyền hoặc.
Cụ Rơ Chăm K’len (74 tuổi) bảo rằng: Làng ma có thể ở trên mặt đất, hoặc dưới mặt đất và bao giờ cũng nằm ở hướng mặt trời lặn.
Đó là một nơi tăm tối, nơi linh hồn của người chết mưu sinh, họ cũng lên rừng lên rẫy, cũng đau bệnh và có chết chóc.
Già lý giải về sự cách biệt giữa hai thế giới âm – dương: làng ma ẩn trong một hang núi ở phía tây do hai chị em bà Tung, bà Tai cai quản.
Xưa kia bà Tung cho phép người sống vào hang núi gặp người thân đã chết, gặp tổ tiên của mình.
Về sau thấy người sống đến làng ma đông quá và bỏ bê chuyện chăm sóc nhà cửa, ruộng rẫy, vậy là thần Kơđei – vị thần tối cao làm phép dùng cây to bịt kín cửa hang, từ đó hai thế giới cách biệt.
Tự tình của người nuôi hồn vợ
Đêm đầu trên đỉnh Sê San, chúng tôi tính vào rừng ma để gặp những người trong làng nuôi ma, nhưng chiều hôm ấy mưa tầm tã, ở chốn thâm sơn, muôn ngàn bất trắc có thể ập đến khiến mạng sống của con người vốn dĩ nhỏ bé càng mong manh.
Sáng trên đỉnh đèo cảnh trí thật vi diệu. Không gian thoáng đãng, phía xa xa mây trắng lượn lờ giữa lưng chừng non xanh cao vời vợi.
Hình ảnh mẹ địu con, các chàng trai cô gái lưng đeo gùi đang rõ nét đó bỗng nhạt dần trong sương và mất hút. Cảnh vật thật dễ khiến những ai yêu thích thiên nhiên thuần khiết mê đắm.
6 giờ sáng, sương còn dày, khí trời lạnh căm căm. Để chống lạnh, nhiều người trong buôn hút thuốc, mang rượu ra uống.
Mặt trời lên cao, sương tan, buôn làng vắng lặng, thanh niên trai trẻ vội vã vào rẫy, đi rừng. Làng chỉ còn người già và trẻ con.
Để giết thời gian chờ đến chiều tối đặng “mò” vào rừng ma, chúng tôi xoắn lấy các già làng hỏi han đủ chuyện rừng sâu núi thẳm ngày trước.
Cuộc trò chuyện trở nên sôi động khi có sự xuất hiện của anh Nay Xua (54 tuổi), người Xơ-Đăng, ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, có vợ người Jrai. Xua giới thiệu mình là người đam mê nghiên cứu văn hóa của các tộc người Tây Nguyên.
K’Sía đang đổ rượu thịt nuôi ma.
Theo anh Xua, anh từng nuôi ma cho vợ và đã bỏ mả. Thời gian đó, cứ đến chiều là anh cùng hai đứa con ra nhà mả quét dọn, có chuyện vui chuyện buồn trong ngày thì kể cho vợ nghe.
Rồi mình mang cơm, mang thịt ra để cho vợ ăn bằng cách đổ thức ăn vào cái ống được thông từ dưới huyện mộ lên. Ngày bỏ mả, anh mổ hai con trâu, một con bò kèm theo 20 ghè rượu để đãi làng, cúng ma.
Theo mô tả của anh Xua, nghi thức của lễ bỏ mả mà anh làm cho vợ được tiến hành khá đơn giản.
Hôm đó, gia đình đào một hố lớn từ phía ngoài nhà mồ đến chỗ quan tài rồi lấy tim, gan, đuôi của con vật hiến sinh cho vào lỗ ấy để cúng người chết.
Sau những lời khấn của thầy cúng và trưởng làng, chiếc hố ấy được lấp lại và mọi người tham dự lễ cùng nhau ăn thịt, uống rượu, vỗ cồng chiêng, nhảy múa đến tối mịt mới trở về.
Sau ngày bỏ mả, hồn người chết được sống vĩnh viễn cùng hồn ông bà tổ tiên. Từ đây hồn có cuộc sống khác, không còn liên hệ gì với người còn sống nên người sống không còn ra thăm mộ và nuôi ma nữa.
Cận cảnh… nuôi ma
Chiều ở núi rừng đến thật nhanh. Mặt trời bắt đầu xuống núi, thời khắc để chúng tôi vào rừng ma. Khi vào gần tới rừng ma, bất ngờ sự cố không mong đợi xảy ra.
Những thanh niên mà chúng tôi nhờ dắt đi mới vừa vui vẻ bỗng dưng sợ hãi một cách lạ kỳ. “Làng ma phía trước, tao không đi nữa. Mày tự đi đi”, anh chàng tên Siu (30 tuổi) sẵng giọng.
Sau phút bỡ ngỡ, hỏi ra mới biết người Jrai trên đỉnh Sê San cho rằng nghĩa địa chôn người chết là bất khả xâm phạm.
Một người nếu tự ý bước chân vào rừng ma khi chưa được phép của các Yang (thần linh) thì gây hại cho bản thân và người thân trong gia đình, dân làng cũng chịu cảnh vạ lây.
Hồn ma sẽ theo dấu chân người, hơi người về đến làng gây nên dịch bệnh, khiến nhiều người ốm rồi chết đau đớn!
Đường vào làng Dip.
Không có người dẫn đường, chúng tôi đành tự tìm vào chốn nghĩa địa hoang dại. Đó là khu đất trống nằm giữa rừng già, phía trước các mộ ở đây đều có những tượng mộc nhân ôm mặt buồn rũ rượi, mục nát theo nắng mưa.
Giữa chốn tha ma này, chúng tôi bắt gặp hai phụ nữ đến thăm và nuôi ma cho người bố Kiu Sek vừa mất.
Trong khi cô em gái Rơ Chăm Lem lặng lẽ quét dọn mả mồ, miệng lầm bầm thổ lộ với linh hồn của bố những chuyện buồn vui trong gia đình thì cô chị K’Sía lặng lẽ đổ rượu, nhét cá bắt từ suối vừa mới nướng cùng cơm lam nấu trong ống lồ ô đổ vào chiếc ống tre được cắm sâu xuống huyệt mộ.
“Ổng thích uống rượu với món này”, K’Sía nói.
Qua trò chuyện, chúng tôi mới biết thêm rằng, sau thời gian chôn ma, mỗi năm đến mùa hoa Pơ Lang nở (hoa gạo, thường nở vào tháng 3, mùa đẹp nhất Tây Nguyên, mùa trăm hoa đua nở và là mùa con ong đi lấy mật), người thân trong gia đình người chết sẽ ra rừng ma, đến mộ dọn sửa, phát hoang cỏ dại.
Việc này cứ được duy trì và chỉ kết thúc sau khi tiến hành lễ bỏ mả.
Ông Nguyễn Đại Hà, 52 tuổi, nguyên chủ tịch xã Ea Tam, huyện Krông Năng, Đắk Lắk, người có gần 20 năm tìm hiểu, nguyên cứu văn hóa, tín ngưỡng của người đồng bào ở Tây Nguyên, cho rằng: "Đời sống, văn hóa, tín ngưỡng của mỗi dân tộc đều khác nhau.
Cũng như các dân tộc khác, người Jrai cũng có phong tục, tập quán riêng của họ. Khi nhắc đến người Jrai, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến lễ bỏ mả.
Theo quan điểm của tôi, lễ bỏ mả của người Jrai là một tập tục lâu đời, không nên xoá bỏ, nó cũng như các lễ tục trong đám tang, lễ cải táng của người Kinh, Khmer…
Tuy nhiên, lễ bỏ mả của người Jrai thường rất tốn kém cho gia đình người chủ. Họ phải tốn trâu bò, heo, gà, rượu để cúng, để đãi đằng buôn làng.
Người giàu có thì không sao, người nghèo thì phải vay mượn, nợ nần không biết đến bao giờ mới trả xong. Cái cần thiết ở đây là, phải thuyết phục bà con người Jrai tiết kiệm trong lễ bỏ mả".